Angkor Wat: Đi, với trái tim

  • Bản Dân

Elena Pucillo Truong

Elena Pucillo Truong

Kỳ 1

Có khá nhiều lý do để du khách lên đường du lịch: quan sát phong tục cá biệt của một dân tộc, tìm hiểu về những nền văn hoá, hay tiếp xúc với thiên nhiên, đào sâu kiến thức về lịch sử hay địa lý…Nhưng với tôi, điều làm giàu tâm hồn nhiều nhất là khi trở về nhà, ngoài những bức hình đã chụp, chính cái cảm giác vương vấn còn lại trong tâm trí, có lẽ nhờ các bạn đồng hành hay cảm xúc vừa trải nghiệm, đã làm cho chuyến đi trở thành duy nhất. Và cuối cùng cảm thấy như vừa thực hiện xong những giây phút quan trọng trong đời mình.

Đó là cảm giác của tôi sau chuyến đi Cam bốt.

Rất nhiều lần tôi muốn thực hiện chuyến đi này, viếng thăm những đền đài Angkor-Wat và thăm một đất nước, như Việt Nam, đã từng hứng chịu những điều kinh khủng trong cuộc chiến.

Thế nhưng, chuyến đi cứ bị dời đi dời lại nhiều lần, may là cuối cùng vợ chồng tôi cũng có thể khởi hành và, chúng tôi chọn chuyến đi bằng pullman được tổ chức bỡi một công ty du lịch tại Sài Gòn.

  • Elena Pucillo Truong: Người Ý- Tiến sĩ ngôn ngữ và văn học nước ngoài (Đại học Milano Italia).


  • Dạy tiếng Pháp và Văn Minh Pháp tại Milano từ năm 1982 và gần đây dạy tiếng Ý tại Nhạc Viện, tại phòng lãnh sự danh dự Ý và tại Trường Đại học KH và XN nhân văn tại TPHCM.


  • Rất yêu Việt Nam. Đã tổ chức nhiều hội thảo ở Ý về Việt Nam về các đề tài “Vai trò phụ nữ và tầm quan trọng của họ trong gia đình Việt Nam” “Tết Việt Nam, phong tục và truyền thống” “Đổi mới, Phát triển kinh tế Việt Nam sau khi giành độc lập”...


  • Viết và cộng tác với các báo La Compagnia dei viaggiatori (Ý), Mekong (tập san của trung tâm nghiên cứu Việt Nam tại Torino, Ý), Đặc san văn học Quán Văn (Sài Gòn).


  • Có một số truyện ngắn đăng trên Báo Bình Định, báo Tuối trẻ cuối tuần, báo Phụ Nữ...

Thường thì tôi thích đi bằng xe Pullman hay xe Bus bởi vì muốn được di chuyển cùng dân bản xứ: Tôi nghĩ là chỉ bằng cách đó tôi mới có dịp học hỏi, quan sát hiểu thêm các phong tục tập quán của một dân tộc. Hơn nữa, một chuyến đi như vậy thường rất vui và có nhiều kỷ niệm. Bởi, làm “du khách”chung với những người ngoại quốc khác, theo tôi sẽ có nhiều giới hạn về kiến thức về cuộc sống của một nước.

Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ một chuyến đi chừng một giờ trên xe Bus, tuyến Sài Gòn-Biên Hoà. Trên xe có tài xế, cô gái bán vé và một phụ xe. Nhiệm vụ của anh này là “bắt” các hành khách đang đợi ở dọc đường hay đứng chờ ở bến. Dọc theo tuyến đường có những quãng không có bảng hướng dẫn hay trạm chờ xe và hành khách phải đón xe ở bất kỳ một chỗ nào đó trên đường. Tôi đã thấy một người đàn ông, để tài xế xe bus thấy, ông phải chồm ra gần giữa lòng đường, thách thức những chiếc xe máy chạy vun vút, đứng vẫy vẫy tay, và khi xe bus gần đến, tài xế giảm tốc độ nhưng không dừng hẳn, ông được anh phụ xe “túm” lấy và kéo lên xe!

Trước khi đến một bến dừng, anh phụ xe giơ hai tay vẫy vẫy, có khi nghiêng cả nửa người ra ngoài thành xe và nói lớn báo cho khách đứng chờ hãy sẵn sàng. Xe chưa kịp dừng lại thì anh đã nhảy xuống và thuyết phục khách hãy leo lên xe bus của mình, chất lượng cao hơn các xe khác, để đến đích mà họ cần.

Dường như có một lý do sinh tử chèo kéo nhiều khách bao nhiêu có thể. Và tất cả các điều này xảy ra trong tiếng cười, hò hét, kêu gọi, nhảy xuống, trèo lên khi xe còn đang chạy, giữa những gói, thùng hàng xách tay.

Cho đến bây giờ như vẫn còn nguyên trước mắt tôi cái nhìn lanh lợi và lém lỉnh của cậu thanh niên phụ xe, thân hình tuy mảnh khảnh nhưng hàm chứa một sức lực dồi dào, hai ống quần của chiếc quần jeans được gấp lên cho gọn gàng phơi rõ hai bàn chân to bè trên đôi sandale đầy bụi. Nhưng điều làm tôi lưu ý là trên thân hình hơi gầy ấy có chứa một sức mạnh, thứ sức mạnh cần thiết để trưởng thành trong vội vã để có thể chiến thắng sự nghèo nàn. Tôi nói “cám ơn” và mỉm cười, khi cậu ta cũng giúp tôi, một người ngoại quốc bước xuống xe bus còn đang chạy chậm...

Và cũng như thế, trong chuyến đi Cam Bốt tôi cũng là người ngoại quốc duy nhất trên xe. Sau vài giờ di chuyển chúng tôi đến biên giới Việt Miên và sau các thủ tục kiểm tra “hộ chiếu”, tất cả các hành khách phải chuyển sang một chiếc xe nội địa khác. Bên cạnh người hướng dẫn tên Nam, lúc này còn có thêm một nữ hướng dẫn viên khác, một cô gái người Cam Bốt mà trước đây cùng gia đình đã trốn sang Việt nam để tránh hoạ diệt chủng của Polpot. Cô theo học ở Đại Học Cần Thơ và sau khi hoà bình lập lại, cô đã trở về Cam Bốt, khai thác vốn kiến thức và khả năng nói thạo tiếng Việt cho ngành du lịch.

Đây không phải là lần đầu tiên hai người này làm việc chung để hướng dẫn du khách. Họ biết rất rõ các điểm cần đến hay nên dừng lại. Họ cung cấp cho du khách các thông tin cần thiết, thí dụ như nên “tranh thủ” ở các điểm dừng, vì trên xứ Cam Bốt rất khó tìm được nhà vệ sinh, và, nếu ai đó có nhu cầu, chỉ còn cách chạy ra đồng, nép mình sau một thân cây hay một bụi rậm.

Nơi chúng tôi dừng lại để ăn uống thường cũng là nơi tụ tập của các người bán hàng rong. Họ bán đủ thứ, từ hoa quả đến những thứ đặc biệt để ăn…và chính vì thế mà, tôi, vì tò mò đã cố lấy can đảm để cắn thử một cái chân nhền nhện chiên giòn.

Sau khi đến Seam Reap, một thành phố đầy khách sạn, cửa hàng, tiệm matsa và các tiệm ăn, nhà hàng… tất cả như được chuẩn bị để chào đón du khách đến thăm các đền đài miếu viện của Angkor Wat.

Ngay từ sáng sớm chúng tôi đã phải xếp hàng để chụp hình ở một trạm gác và sau vài phút các nhân viên ở đây cấp cho chúng tôi một tấm vé có hình để có thể tham quan các ngôi đền.

Đối với tôi, hình ảnh làm tôi xúc động nhất, hơn cả Angkor Wat, chính là những phế tích và những rễ cây hoá thạch của Angkor Thom. Tất cả hình như được bao phủ bởi một lớp bụi của thời gian và rơi vào quên lãng, xung quanh chỉ còn muôn ngàn tiếng gào thét của ve sầu… Một thành phố bị bỏ quên, bỗng dưng sống lại nhờ những hoa văn khắc sâu trên đá và làm cho chúng ta nghe được hơi thở của một nền văn minh của dân tộc Khmer, đã bị người Thái tiêu diệt và tàn phá.

Vượt lên trên những nguy nga của đền tháp Angkor Wat chính là những khắc hoạ Khmer dưới chân những tường đá của Angkor Thom. Những hoa văn đó mới là những bằng chứng hùng hồn về một dân tộc cần cù và trí tuệ. Họ đã khắc lên đá những hình ảnh bình lặng thường ngày, nấu ăn, câu cá và chinh phục cá sấu, tuy nhiên bên cạnh những hình ảnh thanh bình đó, vì trớ trêu của lịch sử, còn có những hình ảnh của chiến tranh, chiến đấu chống lại đội quân xâm lăng của Thái lan trên mặt biển. Sau khi chiến tranh chấm dứt, nhân dân được hưởng cảnh thái bình, họ tìm sự thư giãn với những nhạc cụ, để đệm nhạc cho các vữ nữ, hay đúng hơn, các tiên nữ trong vũ điệu “Apsara” mê hồn: Một vũ điệu trong đó các động tác đều rất chuẩn mực và nhịp nhàng, các chuyển động vô cùng quyến rũ, các bàn tay, ngón tay được uốn cong một cách điêu luyện cùng với thân hình uyển chuyển, uốn lượn, gợi cảm trong mong cầu phồn thực…tất cả những điều đó đều đã trở thành bất tử nhờ các khắc hoạ trên đá, giờ đây đang hứng chịu những đổ nát sau nhiều thế kỷ thách đố với thời gian.

Chúng tôi đứng như bị thôi miên trước những cái nhìn và các khuôn mặt của đức Phật được khắc hoạ một cách sống động trên đỉnh tháp, mặt hướng về bốn hướng Đông Tây Nam Bắc. Hình tượng đó còn được lập lại trong một hành lang dài được trang trí bằng những vòng cung dọc theo một lối đi có những bậc thang lên xuống, tất cả các nét mặt hiền từ, miệng mỉm cười, với đôi mắt nửa nhắm nửa mở, mà đặc biệt là không có khuôn mặt nào giống khuôn mặt nào. Cuối hành lang có một cầu thang 80 bậc, được kiến trúc và xây dựng một cách đặc biệt để những người đến đây phải tỏ lòng tôn kính: Những bậc thang rất hẹp, và ngắn, để khách viếng thăm tượng Phật trên đỉnh tháp phải cúi mình, tư thế bắt buộc phải giữ cho khỏi ngã khi leo lên, rồi khi đi xuống…họ cũng buộc phải giữ tư thế như lúc đi lên, vì bậc thang rất dốc, để giữ lòng tôn kính và khỏi phải xoay lưng về phía Phật.

Đây là một trong những kỳ quan của thế giới, và các dân tộc trên thế giới tham gia cùng Unesco với ước muốn bảo tồn. Nhìn chung, Angkor Wat là một sự kết hợp kỳ diệu của đá, từ những khối có kích cỡ trung bình đến những viên nhỏ vài centimét đặt khít vào nhau tạo thành những cột đá bền vững, đứng bất động giữa thiên nhiên như một sự thách thức về luật cân bằng. Tuy nhiên, nắng gió đi qua, cũng có những đống đá đổ nát nằm dưới chân đền như chứng tích về sự mỏi mệt với thời gian. Bên cạnh những khu vực đang được tái tạo, người ta còn thấy có những ngọn tháp đổ xuống, các tảng đá lớn nhỏ nằm ngổn ngang, rời rạc…trông giống như một nỗi thống khổ của Sisifo (Sisyphe), cứ tiếp tục lăn tảng đá lên đỉnh núi và khi tới đỉnh nó lại lăn xuống vực.

Nhiều người nói là có những nơi trên trái đất mà chúng ta cần phải đến ít nhất một lần trong đời. Trong trường hợp đó, tôi nghĩ Angkor Wat chính là nơi mà chúng ta cần phải đến thăm, trước khi kỳ quan này biến mất một lần nữa…Nhưng lần sau sẽ không phải bị bỏ rơi vì nhân dân chạy giặc hay để nó bị phá huỷ bởi bàn tay của người Thái … mà chính là vì thiên nhiên sẽ nuốt chửng những tháp đền này vì không có kinh phí hay sự quan tâm nhằm khôi phục lại vẻ huy hoàng của vài trăm năm trước, bởi vì các chính phủ hiện nay chỉ chú tâm đến “hiện đại hoá”, xây dựng những cao ốc nhiều tầng bằng kính, những resorts, khách sạn hiện đại ngay sát những sinh hoạt của đa số thần dân trong khu ổ chuột.

Nhưng chuyến đi CamBốt còn mang đến cho tôi những xúc cảm khác… -Còn tiếp một kỳ