Các nước đang phát triển đang chứng kiến tỷ lệ tăng cao về các chứng bệnh không lây nhiễm như tiểu đường, ung thư và bệnh tim mạch. Nhưng các nhà khảo cứu nói các nước đó vốn đã có một con số không cân xứng về các ca bị chứng động kinh so với các nước giàu hơn.
Các nhà khảo cứu nói mặc dầu động kinh là “một trong các chứng rối loạn tốn kém nhất để điều trị,” các nước đang phát triển mang một “gánh nặng.” Họ nói rằng con số người bị chứng động kinh sống ở các nước có thu nhập thấp hay trung bình cao gấp đôi.
Các kết quả được đưa ra trong tạp chí y khoa The Lancet.
Giáo sư phân tâm học của trường Đại học Oxford, ông Charles Newton, là tác giả chính của cuộc khảo cứu. Ông dành phần lớn thời gian ở Kenya và Tanzania cho các chương trình Wellcome Trust. Ông giải thích:
“Động kinh là tình trạng trong đó một sự phát sinh quá độ về thần kinh hay điện trong não bộ khiến cho một người có các cử động bất thường hay bị hôn mê hoặc trong một số trường hợp có các cảm giác bất thường.”
Động kinh là một từ bao trùm cho tình trạng gây ra bởi nhiều nguyên do và có thể xảy ra ở bất cứ tuổi nào. Ông cho biết:
“Nó có thể do di truyền. Nó có thể có các lý do về gien. Nó có thể gây ra vì bị nhiễm trùng, bị chấn động lúc sinh nở, bị thương tích ở đầu hay cả do những thứ như đột quỵ hay khối u trong não.”
Ông Newton cho hay ở châu Phi chấn thương lúc sinh nở thường là do thiếu chăm sóc sản khoa. Và nhiễm trùng não có thể là do những chứng bệnh trong đó có viêm màng não và sốt rét. Chứng bệnh này cũng có thể có nhiều hình thức:
“Ta có thể thấy những người nhìn sững vào khoảng không rất thường xuyên trong ngày. Những người có các cảm giác lạ kỳ như ảo giác, hay những nười lăn đùng bất tỉnh nhân sự, cứng đơ rồi bắt đầu co giật, lăn lóc dưới đất, nhiều khi đi tiểu ướt cả người.”
Những người bị chứng động kinh còn có thể có tỷ lệ tử vong cao hơn nhiều. Chẳng hạn như một người bị co giật có thể bầt tỉnh và dễ bị té, bị phỏng hay bị các tai nạn lao động hơn.
Động kinh là một vấn đề sức khỏe đã có từ lâu đời. Dự án Trị liệu Động kinh nói rằng nhà vật lý học Hy Lạp Hippocrates đã viết cuốn sách đầu tiên về chứng bệnh này vào năm 400 truớc công nguyên. Ông định phá vỡ các huyền thoại, mô tả nó như một chứng rối loạn não bộ.
Bất kể quan điểm ban đầu đó, những người bị động kinh đã phải đối đầu với sự kỳ thị và thành kiến. Chứng bệnh này, nhiều lúc đã bị mô tả là hậu quả của phù phép, không phải chỉ hồi xưa, mà cả ngày nay nữa.
Ông Newton nói thành kiến và sự kỳ thị khiến cho những người bị chứng động kinh bớt đi cơ may được giáo dục, đi làm hay thậm chí kết hôn. Gia đình họ thường tránh né. Ông Newton nói không nhất thiết phải như thế:
“Động kinh có thể kiểm soát được với các loại thuốc men tương đối ít tốn kém. Chỉ cần từ 5 đến 10 đôla mỗi năm là có thể kiểm soát được những cơn động kinh hoặc giảm thiểu số lần động kinh nơi khoảng 70% những người mắc bệnh.”
Thuốc thông thường nhất dùng để điều trị động kinh ở châu Phi là Phenobarbital. Tuy nhiên, thuốc này có những phản ứng phụ, như hiếu động thái quá và nổi mần da nơi trẻ em và gây buồn ngủ nơi người lớn. Ông Newton nói các loại thuốc mơi hơn đã được phát triển trong những năm vừa qua:
“Vấn đề là tất cả các loại thuốc này rất đắt tiền và những người sống trong các khu vực nghèo khó không thể có được. Do đó tôi nghĩ rằng điều chúng ta cần chú ý đối với các khu vực nghèo khó là tìm cách có được các loại thuốc đã có sẵn và tương đối rẻ tiền, và chúng ta biết rõ các phản ứng phụ là gì.”
Nhưng ông Newton và các đồng sự nói rằng ngoài việc làm sao thuốc đến được với người bệnh nhiều hơn, cần phải có nhiều biện pháp hơn để giáo dục và ngăn ngừa chứng động kinh. Ông nói:
“Việc đầu tiên là cảnh báo các cộng đồng để thừa nhận rằng những người bị chứng động kinh thường không biết là mình bị bệnh – và nếu họ biết là họ bị bệnh thì lại không biết rằng bệnh có thể được kiểm soát bằng điều trị y tế.”
Ông Newton cho rằng nếu chăm sóc thai phụ được cải thiện, nếu có thể tránh được các vụ nhiễm trùng não qua vệ sinh tốt hơn và các nỗ lực khác, nếu áp dụng việc bảo vệ tốt hơn để tránh chấn thượng đầu, thì có thể ngăn chặn tới 50% các ca động kinh tại nhiều nơi ở châu Phi.
Ông kêu gọi Liên Hiệp Quốc bao gồm động kinh trong danh sách các chứng bệnh không lây nhiễm cần phải chú ý nhiều hơn.
Các nhà khảo cứu nói mặc dầu động kinh là “một trong các chứng rối loạn tốn kém nhất để điều trị,” các nước đang phát triển mang một “gánh nặng.” Họ nói rằng con số người bị chứng động kinh sống ở các nước có thu nhập thấp hay trung bình cao gấp đôi.
Các kết quả được đưa ra trong tạp chí y khoa The Lancet.
Giáo sư phân tâm học của trường Đại học Oxford, ông Charles Newton, là tác giả chính của cuộc khảo cứu. Ông dành phần lớn thời gian ở Kenya và Tanzania cho các chương trình Wellcome Trust. Ông giải thích:
“Động kinh là tình trạng trong đó một sự phát sinh quá độ về thần kinh hay điện trong não bộ khiến cho một người có các cử động bất thường hay bị hôn mê hoặc trong một số trường hợp có các cảm giác bất thường.”
Động kinh là một từ bao trùm cho tình trạng gây ra bởi nhiều nguyên do và có thể xảy ra ở bất cứ tuổi nào. Ông cho biết:
“Nó có thể do di truyền. Nó có thể có các lý do về gien. Nó có thể gây ra vì bị nhiễm trùng, bị chấn động lúc sinh nở, bị thương tích ở đầu hay cả do những thứ như đột quỵ hay khối u trong não.”
Ông Newton cho hay ở châu Phi chấn thương lúc sinh nở thường là do thiếu chăm sóc sản khoa. Và nhiễm trùng não có thể là do những chứng bệnh trong đó có viêm màng não và sốt rét. Chứng bệnh này cũng có thể có nhiều hình thức:
“Ta có thể thấy những người nhìn sững vào khoảng không rất thường xuyên trong ngày. Những người có các cảm giác lạ kỳ như ảo giác, hay những nười lăn đùng bất tỉnh nhân sự, cứng đơ rồi bắt đầu co giật, lăn lóc dưới đất, nhiều khi đi tiểu ướt cả người.”
Những người bị chứng động kinh còn có thể có tỷ lệ tử vong cao hơn nhiều. Chẳng hạn như một người bị co giật có thể bầt tỉnh và dễ bị té, bị phỏng hay bị các tai nạn lao động hơn.
Động kinh là một vấn đề sức khỏe đã có từ lâu đời. Dự án Trị liệu Động kinh nói rằng nhà vật lý học Hy Lạp Hippocrates đã viết cuốn sách đầu tiên về chứng bệnh này vào năm 400 truớc công nguyên. Ông định phá vỡ các huyền thoại, mô tả nó như một chứng rối loạn não bộ.
Bất kể quan điểm ban đầu đó, những người bị động kinh đã phải đối đầu với sự kỳ thị và thành kiến. Chứng bệnh này, nhiều lúc đã bị mô tả là hậu quả của phù phép, không phải chỉ hồi xưa, mà cả ngày nay nữa.
Ông Newton nói thành kiến và sự kỳ thị khiến cho những người bị chứng động kinh bớt đi cơ may được giáo dục, đi làm hay thậm chí kết hôn. Gia đình họ thường tránh né. Ông Newton nói không nhất thiết phải như thế:
“Động kinh có thể kiểm soát được với các loại thuốc men tương đối ít tốn kém. Chỉ cần từ 5 đến 10 đôla mỗi năm là có thể kiểm soát được những cơn động kinh hoặc giảm thiểu số lần động kinh nơi khoảng 70% những người mắc bệnh.”
Thuốc thông thường nhất dùng để điều trị động kinh ở châu Phi là Phenobarbital. Tuy nhiên, thuốc này có những phản ứng phụ, như hiếu động thái quá và nổi mần da nơi trẻ em và gây buồn ngủ nơi người lớn. Ông Newton nói các loại thuốc mơi hơn đã được phát triển trong những năm vừa qua:
“Vấn đề là tất cả các loại thuốc này rất đắt tiền và những người sống trong các khu vực nghèo khó không thể có được. Do đó tôi nghĩ rằng điều chúng ta cần chú ý đối với các khu vực nghèo khó là tìm cách có được các loại thuốc đã có sẵn và tương đối rẻ tiền, và chúng ta biết rõ các phản ứng phụ là gì.”
Nhưng ông Newton và các đồng sự nói rằng ngoài việc làm sao thuốc đến được với người bệnh nhiều hơn, cần phải có nhiều biện pháp hơn để giáo dục và ngăn ngừa chứng động kinh. Ông nói:
“Việc đầu tiên là cảnh báo các cộng đồng để thừa nhận rằng những người bị chứng động kinh thường không biết là mình bị bệnh – và nếu họ biết là họ bị bệnh thì lại không biết rằng bệnh có thể được kiểm soát bằng điều trị y tế.”
Ông Newton cho rằng nếu chăm sóc thai phụ được cải thiện, nếu có thể tránh được các vụ nhiễm trùng não qua vệ sinh tốt hơn và các nỗ lực khác, nếu áp dụng việc bảo vệ tốt hơn để tránh chấn thượng đầu, thì có thể ngăn chặn tới 50% các ca động kinh tại nhiều nơi ở châu Phi.
Ông kêu gọi Liên Hiệp Quốc bao gồm động kinh trong danh sách các chứng bệnh không lây nhiễm cần phải chú ý nhiều hơn.