Ngày 17/11, tại Quyết định số 1838/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã bổ nhiệm ông Vũ Quang Minh, Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao, giữ chức Thứ trưởng Bộ Ngoại giao để làm Đại sứ Việt Nam tại Campuchia.
Với quyết định trên, ông Vũ Quang Minh hiện là một trong 6 Thứ trưởng Ngoại giao đảm nhiệm vai trò đại diện chính thức cho Việt Nam trên thế giới. Ngoài Thứ trưởng Vũ Quang Minh, Bộ Ngoại giao Việt Nam còn có Thứ trưởng Đặng Minh Khôi làm Đại sứ tại Trung Quốc, Thứ trưởng Phạm Quang Vinh làm Đại sứ tại Mỹ, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn làm Đại sứ tại Liên bang Nga, Thứ trưởng Nguyễn Bá Hùng làm Đại sứ tại Lào, Thứ trưởng Nguyễn Phương Nga làm Đại sứ, Đại diện Thường trực tại Liên Hiệp Quốc.
Người tiền nhiệm của ông Vũ Quang Minh là ông Thạch Dư cũng được bổ nhiệm Thứ trưởng Ngoại giao trước khi trở thành Đại sứ Việt Nam tại Campuchia từ năm 2014 đến 2017. (Thật mỉa mai, trong khi lãnh đạo CSVN thường vỗ ngực tự hào về “vị thế ngày càng cao” của Việt Nam thì một loạt thứ trưởng ngoại giao lại đảm trách vai trò đại sứ tại cả những quốc gia như Lào hay Campuchia.)
Từ nơi núi xương người Việt chất đống…
Nhìn vào danh sách trên người ta dễ nhận ra ngay là Campuchia được Hà Nội coi là một quốc gia rất quan trọng trong chính sách ngoại giao của mình.
Điều này còn được thể hiện trong các chuyến thăm cấp cao của Hà Nội sang Phnom Penh, với tuần suất thăm viếng thuộc vào loại cao nhất trên thế giới. Chẳng hạn, trong năm 2017, trước chuyến viếng thăm đất nước chùa tháp từ ngày 20-22/7 của TBT Nguyễn Phú Trọng là chuyến công du Campuchia của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từ ngày 24-26/4. Còn năm ngoái, sau chuyến công du của Chủ tịch nước Trần Đại Quang vào trung tuần tháng Sáu là chuyến thăm Campuchia của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân vào hạ tuần tháng Chín.
Đặc biệt, sự giúp đỡ mà Việt Nam dành cho Campuchia thì không thể nào đong đếm nổi. Hàng chục ngàn người Việt đã ngã xuống trên đất Campuchia, chưa kể gần hai trăm ngàn người bị thương khác, khi nhà cầm quyền Việt Nam đưa quân sang đây để giúp quốc gia láng giềng thoát khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot. Viện trợ bằng vật chất suốt từ bấy đến nay thì không thể nào liệt kê hết.
Gần đây nhất, nhân chuyến thăm của TBT Nguyễn Phú Trọng năm ngoái, Việt Nam đã tặng Quốc hội Campuchia món quà là công trình nhà làm việc dành cho ban thư ký và các ủy ban Quốc hội trị giá 25 triệu USD.
…thành vũ khí đe doạ Việt Nam của Bắc Kinh
Hao tổn không biết bao nhiêu xương máu, tiền của, thời gian, công sức như vậy… nhưng rốt cuộc thì Việt Nam đạt được gì?
Thật trớ trêu, từ nhiều năm qua, Phnom Penh không chỉ dần xa lánh Hà Nội mà còn công khai trở thành đồng minh thân cận nhất của Bắc Kinh trong khu vực. Còn mục đích quan trọng nhất của Trung Nam Hải khi “đầu tư” vào Hun Sen và Campuchia là để… chống lại Việt Nam.
Hiện tại, Bắc Kinh đã biến Phnom Penh thành đồng minh chí thiết trên hồ sơ Biển Đông, nơi Việt Nam không chỉ có nhiều lợi ích nhất so với các nước trong khu vực mà còn được xem là cửa ngõ chiến lược cho cả dân tộc trong thế kỷ 21.
Chỉ chừng ấy thôi đã đủ cho thấy “con bài” Campuchia lợi hại đến thế nào trong tay Bắc Kinh. Song đó vẫn chưa phải là mối đe doạ nguy hiểm nhất mà quốc gia láng giềng này đặt ra cho chúng ta. Bắc Kinh đang từng bước biến Campuchia thành một mũi dao dí vào mạng sườn Việt Nam dọc biên giới hai nước cũng như vùng biển Tây Nam và sẵn sàng lao lên cùng đồng minh khi hữu sự, trước sự chào mời của những “phần thưởng” quá đỗi hấp dẫn.
Hiện nay, Trung Quốc đã và đang tiếp tục triển khai vô số dự án kinh tế tại Campuchia. Từ năm 1994 đến 2012, Campuchia đã cho Trung Quốc thuê 4,6 triệu ha đất trong thời hạn 99 năm. Người Trung Quốc lũ lượt theo chân các dự án kéo sang đây và xong việc thì ở lại sinh cơ lập nghiệp.
Đại sứ Trung Quốc tại Campuchia cho biết là 35% tổng chiều dài toàn bộ các tuyến đường giao thông ở đây do một mình Trung Quốc tài trợ. Bắc Kinh đã tài trợ cho Campuchia xây dựng tuyến quốc lộ đến biên giới Việt Nam tại cửa khẩu Bavet - Mộc Bài và tiếp tục tài trợ cho những tuyến đường biên giới khác. Không còn nghi ngờ gì, các căn cứ quân sự trá hình của Bắc Kinh đang dần áp sát biên giới Tây Nam của Việt Nam.
Đặc biệt, từ năm 2016, Phnom Penh đã cho Trung Quốc thuê 90km bờ biển trong 99 năm để xây dựng một cảng nước sâu chiến lược (tổng mức đầu tư 3,8 tỷ USD) nhằm phục vụ cho mưu đồ bành trướng sức mạnh quân sự và kinh tế của Bắc Kinh trong khu vực. Rõ ràng, vùng lãnh hải và lãnh thổ Việt Nam cách xa biên giới Việt - Trung nhất cũng đã phải đối diện với hiểm hoạ “made in China”.
Chưa hết, tháng 10 vừa qua, Bộ trưởng Nội vụ Campuchia Sar Kheng khẳng định tiếp tục chính sách thu hồi giấy tờ của 70.000 người ngoại quốc “sinh sống bất hợp pháp” tại đây, trong đó hầu hết là người gốc Việt.
Hun Sen có đáng trách hay không?
“Họa phúc hữu môi phi nhất nhật” (Nguyễn Trãi – “Họa phúc do nguyên nhân từ lâu, không phải chỉ một ngày.”).
Việt Nam và Campuchia cùng chia sẻ một lịch sử hết sức tế nhị. Quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của người Việt khiến vương quốc Champa bị mất một phần lãnh thổ vào tay Đại Việt, trở thành một quốc gia phiên thuộc và phải triều cống cho Việt Nam. Cho dù quá trình đó diễn ra khá êm ả, hầu như không bên nào đổ máu, song nỗi đau mất nước thì vẫn cứ âm ỉ trong lòng người dân Campuchia. Thậm chí, cuối triều vua Minh Mạng, sau khi đánh đuổi quân Xiêm, nhà Nguyễn còn sáp nhập Chân Lạp vào Đại Nam rồi đổi tên thành Trấn Tây thành (1835-1941). Việc người Campuchia nghi kỵ người Việt vì thế là điều không có gì khó hiểu.
Trong bối cảnh đó, sau khi giúp Campuchia thoát khỏi bàn tay diệt chủng của Khmer Đỏ, thay vì lẽ ra phải rút về ngay thì quân đội Việt Nam lại ở lại, dựng lên một chính phủ bù nhìn và thao túng mọi chuyện, thậm chí còn gây ra không ít bi kịch cho người dân Campuchia. Người Campuchia đi từ chỗ coi bộ đội Việt Nam như ân nhân cứu rỗi đến chỗ xem họ như đội quân chiếm đóng, từ chỗ biết ơn đến chỗ căm ghét. Bài viết “Out of 20 of my friends, 17 hate the Vietnamese” (“Trong hai mươi người bạn của tôi thì có đến 17 người ghét người Việt”) trên tờ The Phnom Penh Post ngày 6/9/2014 phần nào nói lên tình cảm đó của họ.
Việc Hun Sen dần ngả vào vòng tay Bắc Kinh xuất phát từ ít nhất ba nguyên nhân dưới đây.
Thứ nhất, là một người Khmer, cho dù rất biết ơn Việt Nam và từng nhiều lần công khai tỏ bày tỏ điều đó, song việc ông ta nghi kỵ quốc gia láng giềng, ít nhiều gì cũng là điều không tránh khỏi, nhất là sau những gì diễn ra kể từ khi Hà Nội đưa quân vào Campuchia cho đến khi Đại sứ Ngô Điền, “người thầy vĩ đại” của Hun Sen, phải rời khỏi Phnom Penh không kèn không trống ngày 13/11/1991.
Thứ hai, không phải Hun Sen chủ động phản bội Việt Nam, mà chính ban lãnh đạo CSVN đã đẩy ông ta vào vòng tay kẻ thù truyền kiếp của dân tộc mình. Tại Hội nghị Thành Đô năm 1990, để được ôm chân quan thầy Bắc Kinh, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng đã không ngần ngại bán rẻ Hun Sen cũng như chính thể “Cộng hoà Nhân dân Campuchia” do họ dựng lên, rồi thuyết phục Hun Sen coi Trung Quốc là đồng minh.
Thứ ba, bị kẹp giữa hai nước lớn vốn luôn muốn áp đặt ảnh hưởng tiêu cực lên mình (Việt Nam và Thái Lan), không có gì khó hiểu khi Hun Sen cũng như ban lãnh đạo Campuchia muốn tìm một đồng minh hùng mạnh bên ngoài nhằm ngăn chặn nguy cơ đó. Điều này cũng đã có tiền lệ lịch sử: Năm 1863, vua Norodom (trị vì từ 1860-1904) đã ký hiệp ước với Pháp, cho phép người Pháp được quyền khai thác khoáng sản để họ giúp ngăn chặn các cuộc xâm lấn của người Thái và người Việt. (Việc Hun Sen từng nói đại ý là ông ta không lo ngại Trung Quốc bởi Campuchia và Trung Quốc không tiếp giáp nhau có lẽ là vì thế.)
Việt Nam phải làm gì?
Để cải thiện quan hệ với Campuchia và xa hơn nữa là đảm bảo an ninh quốc gia trên tuyến biên giới Tây Nam, Việt Nam rõ ràng là có nhiều việc cần phải làm.
Trước hết, lãnh đạo Việt Nam cần công khai lên tiếng xin lỗi người dân Campuchia về những gì mà phía Việt Nam đã gây ra cho họ trong thời gian đưa quân sang đây. Cả lãnh đạo lẫn người dân Campuchia đã nhiều lần bày tỏ lòng biết ơn đối với Việt Nam, trong khi lãnh đạo Việt Nam vẫn chưa chịu lên tiếng xin lỗi để xoa dịu những nỗi đau mà họ đã gây ra cho nhân dân bạn thì thật bất công. (Nếu ban lãnh đạo Việt Nam vẫn đặt lợi ích của Đảng CSVN lên trên lợi ích dân tộc như tại Hội nghị Thành Đô thì điều này khó xẩy ra.)
Tiếp theo, cần đặt mối quan hệ hai nước trên tinh thần bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Việc lãnh đạo Việt Nam kêu gọi phát triển quan hệ hai nước theo phương châm “Láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” sẽ tạo ấn tượng là Hà Nội tỏ ra bề trên với Phnom Penh, bởi “phương châm” đó chẳng khác gì cái gọi là “16 chữ vàng” (“Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”) mà Bắc Kinh “tô điểm” cho mối quan hệ với Hà Nội (thực chất thế nào thì hẳn ai cũng hiểu).
Ngoài ra, Việt Nam cần thiết lập và vun đắp quan hệ với các đảng phái đối lập tại Campuchia, dù CPP của Hun Sen vẫn đang nắm thế thượng phong. Điều này vừa giúp xoa dịu tâm lý chống Việt Nam ở đây, vốn chủ yếu do các đảng phái đối lập khích động, vừa sẵn sàng cho một tương lai họ lên cầm quyền.
Trung Quốc sẽ không bao giờ bằng lòng với những gì mà họ đã đạt được ở Campuchia. Trong khi đó, đối diện với áp lực của phương Tây về cuộc trấn áp lực lượng đối lập trước cuộc bầu cử năm 2018, Hun Sen lại đang chuẩn bị lên đường sang Bắc Kinh để tìm kiếm thêm sự ủng hộ chính trị cũng như đầu tư.
Không chỉ ở biên giới Việt Nam - Campuchia và vùng biển Tây Nam, mà cả ở biên giới Việt - Lào, biên giới phía Bắc, Biển Đông và vùng duyên hải Việt Nam, các gọng kìm mang nhãn hiệu Đại Hán vẫn đang ngày đêm âm thầm siết chặt dải đất hình chữ S.
Trật tự thế giới cũ đang dần thay đổi, trật tự thế giới mới đang từng bước định hình. Trong bối cảnh đó, chiến tranh là một khả năng thực tế, thậm chí khó tránh khỏi, như lịch sử nhân loại đã cho thấy.
Thế nên, tốt hơn hết, Việt Nam cần sẵn sàng cho khả năng xấu nhất là chiến tranh. Muốn vậy, ban lãnh đạo Việt Nam cần phải dân chủ hoá đất nước để tự cường dân tộc, phát triển tiềm lực quốc phòng, đồng thời hình thành mối quan hệ đồng minh chiến lược với Mỹ - Nhật - Ấn - Úc. Nếu làm được như vậy, mối đe doạ trên tuyến biên giới Tây Nam sẽ không còn quá khó để hoá giải.