VOA: Chắc ông cũng biết là ông Lê Công Phụng, người từng giữ chức Trưởng đoàn đám phán cấp chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc, cho biết: tại Thác Bản Giốc, Việt Nam chỉ có một phần ba thác, nhưng nhờ thương thuyết cho nên Trung Quốc nhượng bộ, thành ra Việt Nam được nửa thác. Xin ông cho biết ý kiến về tuyên bố của ông Phụng.
Ông Mai Thái Lĩnh: Theo ông Lê Công Phụng cũng như các quan chức ngoại giao khác, đã công bố qua báo chí Việt Nam, thì theo pháp lý và thông lệ quốc tế, Việt Nam chỉ có được một phần ba thác chính, nhưng qua đàm phán nên cuối cùng Việt Nam có được một nửa thác chính và một phần tư cồn Pò Thoong.
Nhưng nói theo thực tế và căn cứ vào những tài liệu mà mình nắm được thì đúng ra phải nói như thế này: “theo pháp lý và đúng theo lịch sử thì toàn bộ Thác Bản Giốc là của Việt Nam, nhưng vì Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm đoạt và trấn áp, cho nên cuối cùng thì việc thương thuyết của ta hoàn toàn thất bại, cho nên nước ta mất một nửa thác chính.”
Nhưng điều quan trọng nhất là ngoài chuyện mất đi nửa thác chính, chúng ta mất luôn dải đất chạy dài từ cồn Pò Thoong cho đến chân thác. Trước đây không có dải đất này, phía Trung Quốc tuy có một đồn trên đỉnh núi, nhưng không bao giờ có thể đặt chân xuống vùng thung lũng sông Quây Sơn ở phía trên Thác Bản Giốc. Ngày nay họ có thể nhờ dải đất này để di chuyển từ hạ lưu thác đến tận thượng nguồn, đến tận cồn Pò Thoong. Cồn này rộng khoảng 2,6 hecta, và họ chiếm hết ba phần tư. Và nếu trong trường hợp chẳng may xảy ra chiến tranh, tôi nghĩ rằng họ có thể chuyển quân từ dưới lên rất dễ dàng; trong lúc trước đây trong thời Pháp thuộc họ không thể nào đặt chân xuống vùng đồng bằng.
Ngày nay những người biết sử dụng internet có thể dùng những chương trình để xem bản đồ vệ tinh, thì chúng ta thấy là họ tập trung xây dựng cơ ngơi, đường sá và có thể là những công sự phòng thủ và những công trình quân sự rất lớn ở vùng phía dưới thác Bản Giốc.
Sau khi bài viết của tôi được công bố, trong số các ý kiến phản hồi, có một ý kiến rất đáng chú ý.
Trong bài viết tôi nói Trung Quốc bây giờ làm ra vẻ nhân nhượng cho nên họ mới trả lại cho mình một phần tư cồn Pò Thoong và một phần thác chính để mình có được một nửa thác. Nhưng ý kiến này họ nói rằng ý kiến của tôi là không đúng. Ý kiến này cho rằng Trung Quốc sở dĩ trả lại một phần tư cồn Pò Thoong và một phần thác chính là không phải là "cho không" mà họ đổi lại để lấy của Việt Nam một phần tư bãi Tục Lãm ở cửa sông Ka Long ở Móng Cái.
Đây là một ý kiến đáng chú ý và cần tiếp tục nghiên cứu. Nếu điều mà họ nói là đúng thì có thể nói trong vấn đề đàm phán xung quanh Thác Bản Giốc, phía Việt Nam ta hoàn toàn thất bại. Không có đòi lại được gì hết.
VOA: Theo ông, phía Việt Nam, chính phủ nói riêng và người dân nói chung, nên làm gì trước tình hình hiện nay để khỏi bị thiệt thòi thêm nữa trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc?
Ông Mai Thái Lĩnh: Tình hình bây giờ...mặc dù các cấp lãnh đạo làm ra vẻ ta và Trung Quốc đang trong quá trình thân thiện, hay có nhiều lạc quan, nhưng theo tôi, tình hình hết sức nghiêm trọng. Bởi vì nếu chúng nhìn một cách hệ thống thì chúng ta thấy kế hoạch xâm chiếm đất đai ở biên giới cũng như lãnh hải, hải đảo đều nằm trong một kế hoạch chung của phía Trung Quốc và được tiến hành qua nhiều thế hệ và chuẩn bị rất chu đáo. Mà hiện nay trong vấn đề Biển Đông – vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa, chúng ta thấy rằng Trung Quốc để lộ ra một tham vọng quân sự rất lớn.
Theo tin mới nhất mà tôi đọc được, ngân sách quân sự của Trung Quốc trong năm 2011 là gần 120 tỷ đô la và đến năm 2015 sẽ tăng gấp đôi, gần 240 tỉ (con số chính xác là 238,2 tỉ đô la). Ngân sách này còn cao hơn tổng số chi phí quân sự của các cường quốc châu Á gộp lại. Cho nên với một chính sách như vậy, tôi nghĩ, nước ta đang ở trong một nguy cơ rất lớn trong vấn đề Biển Đông.
Trong khi đó thì về phía chính phủ chúng tôi thấy chính sách không rõ ràng, và thay đổi từ cực đoan này sang cực đoan khác. Đã có thời kỳ Đảng Cộng Sản đã ghi vào Hiến pháp ở Việt Nam “Trung Quốc là kẻ thù chiến lược lâu dài”. Đến thập niên 90 tới nay lại đổi thành “14 chữ vàng” rồi “4 tốt”, vân vân … trong lúc tình hình thực tế thì không phải là như vậy.
Cho nên tôi có một số ý kiến như sau.
Đối với chính phủ:
- Muốn cho người dân tin tưởng thì chính phủ không thể tiếp tục nói dối dân mà phải thành thật, vì nói dối dân trước sau gì cũng bị người ta phát hiện ra, mà đã phát hiện ra thì dân sẽ không còn tin vào chính phủ nữa. Mà tốt nhất là phải thành thật thừa nhận những điều mình làm sai trước đây và xin lỗi người dân chứ không thể tiếp tục che đậy được.
- Nếu muốn được dân tin, thì không thể tiếp tục đường lối ngoại giao hết sức phi lý, hết sức kỳ quặc. Mình nói 16 chữ vàng, 4 tốt, trong khi phía Trung Quốc không hề thay đổi chính sách của họ. Họ vẫn lộ rõ tham vọng rất lớn trong vấn đề Biển Đông.
- Tôi nghĩ chính phủ phải trả tự do vô điều kiện cho những người yêu nước, ví dụ như Điếu Cày hay bà Bùi Thị Minh Hằng. Vì những người này phản đối Trung Quốc vì lòng yêu nước, nên không có lý do gì để nhà nước bắt giam họ mà lại bắt giam không đúng theo luật pháp. Không làm được điều này thì dân không tin.
- Một điều nữa là phải đánh giá đúng công lao của các triều đại trước trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Phải vinh danh những chiến sĩ của chế độ Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa.
- Và cuối cùng là phải thực thi các quyền tự do căn bản để người dân có thể tự do tìm hiểu, thảo luận, trao đổi về các vấn đề đối ngoại.
Còn về phía người dân, chúng tôi nghĩ rằng cần phải làm những công việc sau đây:
1) Thứ nhất là nên xem xét lại, khảo sát lại tất cả đường biên giới trên bộ trước đây đã mất gì so với đường biên giới cũ. Nhiều người nói việc này không quan trọng, không cần thiết vì là chuyện quá khứ. Nhưng tôi nghĩ vấn đề rất quan trọng bởi vì thật ra vấn đề biên giới trên bộ và vấn đề lãnh hải, hải đảo liên hệ gắn bó với nhau; mà mình không rút ra được bài học lịch sử, thì mình không bao giờ có được những bài học tốt cho tương lai. Một dân tộc không hiểu rõ lịch sử của mình, không đánh giá đúng thành công và thất bại của mình thì không bao giờ có thể tiến được trong tương lai. Thực tế của nước Nhật là một ví dụ điển hình.
2) Cần phải đánh giá lại thành công và thất bại của đường lối, chính sách đối ngoại trước đây của nước ta, nhất là quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
3) Tôi nghĩ về phía trí thức và phía người dân chúng ta cần phải phá bỏ độc quyền trong lĩnh vực đối ngoại. Nhất là phá bỏ độc quyền về thông tin. Tôi thấy có tình trạng hết sức vô lý. Thí dụ như trước đây, khi ký hiệp ước 1999, một hiệp ước quan trọng như vậy mà quốc hội không biết gì hết – (có biết) cũng chỉ là biết sau khi sự việc đã rồi. Và thậm chí cho tới bây giờ Ải Nam Quan mất như thế nào, mất bao nhiêu đất, thác Bản Giốc mất như thế nào, tôi nghĩ hầu hết các đại biểu quốc hội các khoá đều không biết gì hết. Về lâu dài, tôi nghĩ, phải có đấu tranh để có một chế độ dân chủ để người dân phải có một cái quyền gì đó, nhất là trong lãnh vực đối ngoại. Ví dụ như cơ quan nào, chức vụ nào chịu trách nhiệm về đối ngoại phải thật sự là do dân bầu, chịu trách nhiệm trước dân. Như vậy người dân có quyền thay đổi cơ quan đó hay cử người giữ chức vụ đó thông qua bầu cử. Chứ nếu như hiện nay như tình hình Việt Nam là bất hợp lý: một tổ chức không do dân bầu ra (như Bộ Chính trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam là không do dân bầu ra) nhưng lại nắm quyền toàn bộ. Cho nên người dân cũng không có quyền thay đổi Bộ Chính trị đó, không có quyền bãi miễn, không được quyền cách chức hay không có quyền thông qua phiếu bầu để thay đổi. Thế thì toàn bộ lãnh vực đối ngoại gần như độc quyền của một thiểu số trong đảng. Mà như vậy sẽ gây ra tình trạng giống như tình trạng chúng ta thấy trước đây, khi ký hiệp định năm 1999.
Đó là một số ý kiến bước đầu mà tôi đề ra và tôi nghĩ rằng nếu mình không làm được điều này thì trong tương lai chắc chắn chủ quyền của chúng ta ở Biển Đông sẽ bị ảnh hưởng rất lớn.
VOA: Xin cám ơn ông Mai Thái Lĩnh đã dành thời giờ cho chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn này.