So sánh là khiên cưỡng vì thể chế chính trị khác nhau, tất yếu nền giáo dục cũng khác nhau. Tuy nhiên, hàng năm cứ vào cuối tháng 4, người miền Nam lại nhìn lại những năm hậu chiến với thời gian trước 1975 trong nỗi niềm luyến tiếc.
Đến cuối tháng 4 này, miền Nam Việt Nam bước sang năm thứ 43 của hậu chiến. Nhìn lại chặng đường giáo dục của miền Nam trước và sau năm 1975, người ta dễ nhận ra có sự khác biệt quá xa trong 42 năm qua. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa thời trước là nhân bản, dân tộc, và khai phóng.
Linh mục Phạm Trung Thành của Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn nói rằng ông đã được hưởng một nền giáo dục khá toàn mỹ dưới thời Việt Nam Cộng Hòa:
“Tôi lớn lên và trưởng thành ở miền nam Việt Nam trước năm 1975. Là một học sinh trung học của một trường công lập và rồi là một sinh viên, tôi đã được thừa hưởng một cái nền giáo dục, một hệ thống giáo dục và một bầu không khí giáo dục có thể nói là khá toàn mỹ”.
Sau năm 1975 và kéo dài đến hôm nay, nền giáo dục vẫn loay hoay trong những kế hoạch thử nghiệm, mà mới nhất là tiếp tục kêu gọi góp ý về thay đổi chương trình giáo dục phổ thông. Từ thập niên đầu 90 đến nay, học trò đang bị buộc học quá nhiều ở lớp, và khi về nhà còn phải theo các lớp học thêm với những khoản chi phí, mà theo lời của phụ huynh Lê Thị Nhìn, nhiều lúc vượt khả năng của phụ huynh:
“Chương trình học của mấy cháu tiểu học quá nhiều so với số tuổi của các cháu. Bởi vì học ở trong trường xong thì còn phải về học phụ đạo hoặc là học thêm tất cả các môn, chẳng hạn như Anh văn để không sợ thua với bạn bè. Ngoài chuyện học phí ra còn nhiều số tiền khác nữa, chẳng hạn như tiền học thêm rồi tiền phụ đạo, cảm thấy nhiều”.
Chạy tiền để cho con cái được đi học là chuyện không hề xảy ra trước năm 1975, theo lời cựu giáo sư Trần Minh Quốc:
“Nhớ thuở xưa, từ lúc tôi học lớp một cho tới lớp mười hai, tôi hoàn toàn không đóng một đồng xu nào cho nhà trường, hoàn toàn không đóng. Cái này nói thật. Không những không đóng tiền cho nhà trường, mà có những năm tôi được cấp học bổng, rồi học giỏi, rồi được phần thưởng, tập vở giấy bút này nọ phủ phê. Rồi khi lên đại học thì tốn kém rất ít. Riêng cái ngành Sư Phạm và Văn Khoa thì nói thiệt như các bạn biết là hoàn toàn không có đóng tiền. Giáo dục hoàn toàn miễn phí. Thật đáng ca ngợi, ưu việt mà ca ngợi trong một cái sự luyến tiếc...”.
Học sinh hiện nay tất bật đến trường, rời trường để bước vào những lớp học thêm, lớp phụ đạo. Phụ huynh cũng tất bật đưa đón con cái. Khoảng nghỉ để lứa tuổi hoa niên hồn nhiên với những trò chơi như nhảy dây cũng ngày càng hiếm hoi.
Cựu giáo sư Trần Minh Quốc bi quan nói rằng 42 niên học đi qua, nền giáo dục vẫn chưa có được sự yên ổn:
“Và có thể nói trong suốt bốn mươi hai năm nay thì chưa từng ngày nào, tháng nào, năm nào nền giáo dục hiện hữu ổn định cả”.
Sự không yên ổn ấy càng khiến người ta thương tiếc về một nền giáo dục đã mất.
Linh mục Phạm Trung Thành ngậm ngùi tỏ bày lòng tri ân:
“Xin cám ơn những con người đã hy sinh, những con người đã cố gắng để tạo dựng cho cái bầu khí của miền Nam Việt Nam trước năm bảy mươi lăm tốt đẹp. Nếu đem so sánh với các bạn trẻ ngày hôm nay, thì chúng tôi thấy rằng chúng tôi đã được sống trong một bầu không khí khá trong lành và thuận lợi cho việc phát triển học tập. Ngày hôm nay, có thể nói rằng thế hệ của chúng tôi tủi hổ và xin lỗi thế hệ các em, các cháu vì chúng tôi đã không tạo được một môi trường văn hóa-xã hội-giáo dục như thời chúng tôi đã được hưởng từ cha ông”.