Giá xăng dầu giảm liên tục trong gần hai tháng qua đã làm giảm đáng kể áp lực lạm phát ở Mỹ, khiến người dân Mỹ đã có thể thở phào nhẹ nhõm. Tuy nhiên, nhiều yếu tố rủi ro vẫn còn có nghĩa khiến giá xăng dầu có nguy cơ sẽ tăng trở lại, các nhà quan sát cho biết.
Giá một gallon xăng thông thường đã đạt mức cao nhất mọi thời đại là 5,01 đô la vào giữa tháng Sáu, góp phần rất lớn gây ra nạn lạm phát cao nhất trong bốn thập niên ở Mỹ trong quý 2 năm 2022. Tuy nhiên, kể từ đó, trong 58 ngày liên tiếp giá xăng đã liên tục giảm từ Bờ Đông sang Bờ Tây và hiện giờ giá bình quân toàn quốc một gallon xăng thông thường đã giảm xuống còn 3,99 đô la, theo AAA, tức Hiệp hội Xe cộ Mỹ.
‘Nhu cầu giảm’
Giá xăng dầu giảm nhiều như vậy, theo Giáo sư-Tiến sỹ Khương Hữu Lộc, vốn đang giảng dạy chương trình Thạc sỹ Quản trị Kinh doanh tại Keller Graduate School of Management, chủ yếu là do nhu cầu giảm.
“Khi giá xăng dầu quá cao thì người ta bắt đầu tiêu thụ xăng ít đi, họ bớt đi lại hơn, khiến cho nhu cầu giảm,” ông Lộc nói với VOA từ Fort Worth, Texas.
Nền kinh tế Trung Quốc, vốn tiêu thụ rất nhiều xăng dầu, đang gặp trì trệ do những biện pháp phong tỏa để chống dịch COVID-19, dẫn đến lo ngại về nhu cầu giảm, khiến thị trường dầu thô thế giới đi xuống, vị giáo sư này chỉ ra.
“Giá dầu thô đã giảm từ 123 xuống còn 93 đô la một thùng, mà giá dầu thô chiếm đến 50% giá xăng,” ông cho biết.
Hơn nữa, tận dụng giá xăng cao, các nhà máy lọc dầu ở Mỹ ‘đang chạy hết công suất’ để kiếm lời, cũng theo lời kinh tế gia này, góp phần giảm thiếu hụt nguồn cung.
Các biện pháp của chính quyền Joe Biden, theo ông Lộc, trong đó ồ ạt tung dầu ra thị trường từ Kho dự trữ chiến lược, lên đến một triệu thùng mỗi ngày liên tục trong vòng 6 tháng, đã phát huy tác dụng.
Tổng thống Biden cũng đang kêu gọi Quốc hội dỡ bỏ thuế liên bang đối với xăng dầu, hiện ở mức 18 xu một gallon cũng như kêu gọi các bang dỡ bỏ thuế xăng dầu của họ.
“Lời tuyên bố của ông Biden trong mấy tháng trước là sẽ làm mọi cách để chống lạm phát đã có hiệu quả. Mở kho dự trữ chiến lược và giảm thuế liên bang là hai điều duy nhất mà tổng thống có thể làm được trong trường hợp này,” ông nói.
Mặc dù khối OPEC có hứa gia tăng sản lượng sau chuyến thăm của ông Biden đến Ả Rập Xê-út nhưng mức tăng ‘không đáng kể’. Tuy nhiên, nó cũng có ‘tác động tâm lý đối với giá xăng dầu nói chung’, ông Lộc nhận định.
Dự báo tình hình giá xăng dầu trong thời gian tới, nhà kinh tế này chỉ ra các yếu tố rủi ro như chiến tranh Ukraine và gián đoạn chuỗi cung ứng ‘vẫn còn đó’ sẽ khiến giá xăng dầu tăng trở lại.
Trong giai đoạn trước mắt, khi vẫn đang là mùa hè và người dân Mỹ thấy giá xăng dầu đi xuống, họ có thể đi lại nhiều hơn, khiến nhu cầu phục hồi. Mặt khác, mùa mưa bão có thể ảnh hưởng đến năng suất lọc dầu ở Mỹ do các nhà máy lọc dầu chủ yếu nằm ở các bang thuộc vùng Vịnh Mexico, nơi thường hứng chịu các trận bão lớn.
Đến mùa đông, khi nhu cầu tiêu thụ năng lượng của châu Âu tăng cao và lệnh cấm dầu Nga bắt đầu có hiệu lực, giá xăng dầu sẽ đối mặt áp lực tăng giá trở lại.
Lạm phát lắng dịu
Về tình hình lạm phát, vốn là nỗi lo của chính quyền Biden trước kỳ bầu cử giữa kỳ vào tháng 11 năm nay, ông Lộc nhận định giá xăng dầu giảm đã ‘tác động rất nhiều đến lạm phát’, giúp lạm phát trong tháng 7 giảm xuống 8.5% với 9,1% trong tháng 6.
Trong khoảng một năm qua, quan điểm rằng lạm phát đang tăng phi mã ngoài tầm kiểm soát đã trở nên khắc sâu trong tâm trí người Mỹ. Trong 12 tháng tính đến tháng Bảy năm 2022, giá xăng dầu đã tăng 44%, chi phí nhiên liệu đầu vào tăng 75,6% và giá hàng hóa tăng 13,1%. Tuy nhiên, các hộ gia đình đang bị áp lực cuối cùng cũng thở phào nhẹ nhõm được một chút.
Trong tháng Bảy, giá cả nói chung không tăng chút nào, cho dù là chưa điều chỉnh hay đã điều chỉnh theo mùa thì chỉ số CPI đều đi ngang, do giá năng lượng giảm bù đắp việc tiền thuê nhà và chi phí thực phẩm tăng. Nói cách khác, lạm phát tạm ngưng trong một tháng.
Đây là lần đầu tiên kể từ tháng 5 năm 2020, chỉ số CPI không tăng và đó là kết quả mà ít nhà kinh tế dự đoán được.
Báo cáo của Bộ Lao động cho thấy Chỉ số giá sản xuất, tức giá đầu vào mà các doanh nghiệp phải trả, đã giảm 0,5% trong tháng 7, mức giảm lớn nhất trong hơn hai năm.
Một số chỗ trước đây chứng kiến tăng giá mạnh, chẳng hạn du lịch, giá đã giảm. Giá vé máy bay giảm 7,8%, giá thuê xe hơi và xe tải giảm 9,5% và giá phòng khách sạn giảm 3,2%. Giá của nhiều mặt hàng cứng, chẳng hạn máy tính và thiết bị thể thao, cũng giảm nhẹ, điều này cho thấy ít nhất một số vấn đề về gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu vốn đã đẩy giá lên cao trong vài năm qua, cuối cùng đã được khắc phục.
“Giá xăng dầu tiếp tục xuống thấp thì lạm phát có thể xuống thêm nửa phần trăm nữa, có thể ảnh hưởng đến bầu cử giữa nhiệm kỳ,” ông Lộc nói thêm.
Ông Lộc cho rằng lạm phát ở Mỹ đã đến đỉnh và trong thời gian tới sẽ đi xuống. Điều này sẽ giúp Cục dự trữ Liên bang (FED) không phải tiếp tục tăng lãi suất nữa. “Đó là lý do thị trường chứng khoán Mỹ đã tăng bốn tuần liên tiếp,” ông chỉ ra.
Tờ New Yorker dẫn phân tích của ngân hàng đầu tư Jefferies đánh giá chỉ riêng giá xăng giảm kể từ cuối tháng 7 có thể giúp chỉ số CPI tháng 8 giảm 0,6%. Vào cuối năm nay, tỷ lệ lạm phát chung có thể loanh quanh ở mức 7%, Gregory Daco, kinh tế gia trưởng tại EY-Parthenon, được dẫn lời nói.
Không suy thoái?
Về nguy cơ suy thoái, ông Lộc cho rằng về mặt kỹ thuật thì kinh tế Mỹ đã suy thoái vì đã trải qua hai quý liên tiếp tăng trưởng âm. Tuy nhiên, theo lý giải của ông, điều này ‘không có ý nghĩa nhiều’.
“Cái xe đang chạy nhanh nên FED tăng lãi suất để rà thắng lại,” ông phân tích. “Một khi FED không tăng lãi suất nhiều nữa thì cỗ xe kinh tế Mỹ sẽ chạy lại thôi.”
Ông cho rằng qua quý 3 kinh tế Mỹ có thể vẫn sẽ tăng trưởng âm hoặc đi ngang, nhưng sang quý 4 người dân sẽ tiêu xài trở lại cho mùa lễ hội, điều này sẽ khiến kinh tế tăng trưởng.
“Qua thăm dò người dân thì người ta vẫn còn rất tin tưởng vào nền kinh tế và họ cho biết sẽ tiêu xài lại,” ông Lộc nói.
Trên tờ New Yorker, nhà báo John Cassidy dẫn nguồn từ các nhà kinh tế và các lãnh đạo doan nghiệp dự đoán kinh tế Mỹ ‘đang không ở trong vòng xoáy giá-lương’, tức giá tăng dẫn đến lương tăng, và lương tăng khiến giá cả tăng tiếp, như đã từng xảy ra vào những năm 1970.
“Lạm phát ở mức 4 hoặc 5% sẽ có những hậu quả rất khác so với 9 hay 10%. Lịch sử cho thấy khi giá tăng mạnh trong thời gian dài, mọi người sẽ điều chỉnh hành vi – bao gồm đòi hỏi tiền lương – cho phù hợp,” ông Cassidy viết.