Khi ‘rõ ràng, sòng phẳng, ... , sợ gì’ là chủ trương đối ngoại của chế độ

Chuyển giao những công nghệ tinh vi của Mỹ cho Việt Nam, liệu công nghệ đó có được giữ lại trong biên giới Việt Nam hay không?

Về kinh tế, như chủ đề nghe phía Việt Nam nhắc nhiều nhất là mong muốn được chuyển giao công nghệ sản xuất chip bán dẫn, vốn có giá trị béo bở một con gà đẻ trứng vàng mà ngay chính Trung Quốc cũng đang thèm khát như thế nào.

Đặng Đình Mạnh (*)


Người Việt sẽ dễ dàng bật cười khi nghe phát biểu tự tán dương của ông Nguyễn Phú Trọng về hiện tình đất nước, như "Đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay" [1], vì có vẻ như, ông ấy đang nói về một đất nước nào khác chứ không phải Việt Nam.

Thật ra, một phần trong lời tán dương ấy là hoàn toàn có cơ sở, chứ không phải là một câu chuyện khôi hài lúc “trà dư, tửu hậu”. Đồng thời, những ứng xử đầy tính quả quyết, thậm chí ngạo mạn đến mức thiếu nghiêm túc của chế độ đối với cộng đồng quốc tế cũng đã cho thấy điều ấy.

Tháng 05/2023, tại BangKok, một nhân viên trong khối cộng đồng ngoại giao tại Hà Nội kể lại với người viết về một trong những buổi trao đổi công việc giữa họ và Hà Nội. Trong đó, ngay khi vừa nghe nhắc đến vấn đề tù nhân chính trị, thì người đại diện bên phía Việt Nam đã cắt ngang và cho rằng: Chủ đề này sẽ chẳng giải quyết được gì, vui lòng không đề cập đến nữa.

Không chỉ thế, hạ tuần tháng 12/2023, nhân dịp kỷ niệm 75 năm ngày ra đời của bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, chính quyền Việt Nam đưa ra lời cam kết gồm 8 điểm với Liên Hiệp Quốc, rằng họ sẽ cải thiện hồ sơ nhân quyền và một số lãnh vực khác với hạn thực hiện là vào... cuối năm 2099 (tức là sau 76 năm nữa?!). Cho thấy thái độ ngạo mạn, thiếu nghiêm túc của chế độ đối với cộng đồng quốc tế như thế nào.

Mặc cho sự ứng xử của Việt Nam như thế nào đi nữa, nhưng thực tế thì chính quyền Hoa Kỳ và các đồng minh của họ vẫn một mực giữ thái độ hết sức vuốt ve đối với Hà Nội. Chúng ta cứ nhìn các hoạt động đối ngoại nhộn nhịp của chính quyền trong vài năm trở lại đây, hoặc ít nhất, từ khoảng giữa năm 2023 thì sẽ thấy rõ điều ấy:

  • Hạ tuần tháng 06/2023, nâng cấp quan hệ Việt - Hàn lên mức cao nhất: “Đối tác chiến lược toàn diện”;
  • Tháng 9/2023, Tổng thống Hoa Kỳ, ông Joe Biden đích thân đến Hà Nội ký kết thỏa thuận nâng cấp quan hệ Việt - Mỹ lên mức “Đối tác chiến lược toàn diện”. Nhân chuyến đi này, công chúng đã từng hy vọng về sự “lại quả” của chính quyền Việt Nam cho món quà nâng cấp quan hệ ngoại giao mà đích thân ông Joe Biden mang đến. Ít nhất cũng là sự trao trả tự do cho một số tù nhân chính trị hàng đầu hiện đang được cộng đồng quốc tế mong đợi. Nhưng không, một con số 0 tròn trĩnh.
  • Cũng trong tháng 09/2023, bên lề Hội nghị Cấp cao ASEAN 43 tại Jakarta, Indonesia, Việt Nam và Úc cùng bày tỏ nguyện vọng sớm ký kết nâng cấp quan hệ Việt – Úc lên mức “Đối tác chiến lược toàn diện”;
  • Ngay trong tháng kế tiếp, tháng 10/2024, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc, ông Tập Cận Bình đến Hà Nội ký kết hàng loạt thỏa thuận. Trong đó, đáng chú ý nhất là việc Việt Nam đã chính thức gia nhập “Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam – Trung Quốc”, do Trung Quốc chủ trương;
  • Hạ tuần tháng 11/2023, nâng cấp quan hệ Việt – Nhật lên cấp “Đối tác chiến lược toàn diện”;

Trước đó, năm 2016, Việt Nam cũng đã sớm ký kết nâng cấp quan hệ Việt - Ấn lên mức “Đối tác chiến lược toàn diện”.

Như vậy, có lẽ chỉ còn thiếu khối Cộng đồng chung Châu Âu, thì hầu hết các cường quốc lớn trên thế giới và khu vực gồm Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ đều đã nâng cấp mối bang giao với chính quyền Việt Nam lên mức cao nhất.

Câu hỏi đặt ra rằng tại sao Việt Nam, một đất nước nghèo nàn, tụt hậu so với thế giới về mọi mặt, không hề chia sẻ những giá trị chung, mang tính phổ quát với thế giới văn minh, thậm chí trái lại, còn là một quốc gia độc tài, phản dân chủ, đàn áp nhân quyền... lại được ưu ái trong mối bang giao với các cường quốc phương tây như vậy? Không chỉ thế, mà trong các cuộc đối thoại nhân quyền, cho dù là một chế độ bị cả thế giới chán ghét, bị săm soi về “thành tích” nhân quyền tệ hại, nhưng họ cũng vẫn thể hiện thái độ hết sức ngạo mạn, kẻ cả?

Câu trả lời không quá bí hiểm, vì chúng đã là hiểu biết chung của những người quan tâm đến thời sự Việt Nam. Tất cả chỉ gói gọn trong một lý do: Vì vị thế địa chính trị của Việt Nam quan trọng thế cờ bao vây Trung Quốc của Hoa Kỳ và đồng minh mà thôi.

Trung quốc, khi bước vào thế kỷ XXI đã tự tin về tiềm lực của mình đến mức độ đã xếp lại sách lược “ẩn mình chờ thời” của ông Đặng Tiểu Bình, mà ngày càng cả quyết “trỗi dậy”, thể hiện mình như một mối nghi ngại cho hòa bình và sự ổn định trên chính trường quốc tế. Đáng kể nhất là thách thức quyền lực của Hoa Kỳ và đồng minh của họ. Điều này là cơ sở khiến chính quyền Hoa Kỳ phải thay đổi chính sách đối ngoại với chủ trương “Xoay trục hướng Đông”, bắt đầu vào nhiệm kỳ tổng thống của ông Barak Obama. Trong chủ trương đó, bao hàm chiến lược bao vây, khống chế Trung Quốc.

Trong chiến lược bao vây Trung Quốc, không thể thiếu vai trò quan trọng của Việt Nam. Thật vậy, vị trí địa lý Việt Nam nằm ở phía nam Trung Quốc, sở hữu bờ biển kéo dài đến hơn 3.200km nhìn ra biển Đông, nơi có tuyến đường hàng hải quan trọng, nhộn nhịp nhất nhì thế giới, được đánh giá vận chuyển đến 50% khối lượng hàng hóa trên toàn thế giới.

Với đặc điểm như thế, giả thiết khi xảy ra một cuộc chiến giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ và đồng minh, thì vô hình trung, Việt Nam trở thành một tiền đồn án ngữ, ngăn chặn quân đội Trung Quốc tràn xuống phía nam bằng đường bộ. Về phía đông, nhờ sở hữu ven biển kéo dài, cho nên, không cần phải đưa tàu chiến ra biển, thì Việt Nam vẫn có khả năng khống chế toàn bộ khu vực biển Đông. Các hải đảo thuộc khu vực Hoàng Sa và một phần Trường Sa mà Trung Quốc đang chiếm đóng, thậm chí, xây dựng cả đường băng cùng các công trình quân sự cũng không còn mấy ý nghĩa, vì tất cả đều nằm trong tầm khống chế của khí tài Việt Nam hiện có.

Thế nên, giữ cho Việt Nam không trở thành đồng minh của Trung Quốc, hoặc ít nhất, không quá ngả về phía Trung Quốc một khi xảy ra trận chiến quyết định là giải pháp mang tính chất quyết định của bàn cờ thế bao vây Trung Quốc. Làm được điều đó, không có cách gì hay hơn là đành phải ve vãn chính quyền Cộng Sản Việt Nam, nâng cấp mối quan hệ bang giao với Việt Nam lên mức cao nhất, cho dù, họ biết rất rõ tình trạng đàn áp nhân quyền của chính quyền Cộng Sản hiện tại là không thể chấp nhận.

Cho thấy, các thành tựu ngoại giao mà chính quyền Cộng Sản đang tự tán dương hoàn toàn xuất phát từ vị thế địa chính trị của Việt Nam mà thôi và nguồn gốc của địa chính trị Việt Nam là di sản, là thành quả mở mang bờ cõi của tiền nhân để lại. Chúng không phải là công trạng gì của Đảng Cộng Sản như ông Nguyễn Phú Trọng đang cố ra sức tán dương khi phát biểu về điều đó. Cho nên, cho dù không phải là chính quyền Cộng Sản, mà bất kỳ chính quyền nào nắm giữ quyền lực chính trị tại Việt Nam cũng sẽ đều được Hoa Kỳ và đồng minh ưu ái bang giao như thế cả.

Mặt khác, tuy không có công trạng gì, nhưng đảng Cộng Sản Việt Nam lại đang thu lợi từ sự ưu ái bang giao của Hoa Kỳ và đồng minh, như: Giúp gia tăng tính chính danh của chế độ, khoe khoang là công trạng của chế độ như lời tuyên bố của ông Nguyễn Phú Trọng "Đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".

Thế nhưng, bên cạnh sự thu lợi của chế độ, thì điều đáng buồn rằng sự ưu ái bang giao của Hoa Kỳ và đồng minh lại không mang lại lợi ích gì đáng kể cho người dân Việt Nam, vốn là người chủ của đất nước và là người chủ của vị thế địa chính trị cần thiết cho Hoa Kỳ và đồng minh cả. Vì lẽ, tuy nâng cấp bang giao với chính quyền Cộng Sản, nhưng không mấy ai trong số họ tin cậy vào sự thành thật của chính quyền Cộng Sản cả, khi họ luôn luôn chứng kiến mối bang giao thâm tình “Môi hở, răng lạnh”, nồng ấm trong quan hệ Việt – Trung, cùng với đó là những lời lẽ có cánh dành cho nhau. Thế nên, mối nghi ngại về việc chính quyền Cộng Sản Việt Nam đóng vai con ngựa thành Troa là khả năng có thật.

Do đó, những lợi ích về kinh tế, quốc phòng mà Việt Nam từng mong mỏi đến từ Hoa Kỳ và đồng minh khi ký kết thỏa thuận nâng cấp bang giao vẫn chỉ đang tồn tại ở dạng lời hứa hẹn đẹp mắt, bùi tai mà không thực chất.

Về kinh tế, như chủ đề nghe phía Việt Nam nhắc nhiều nhất là mong muốn được chuyển giao công nghệ sản xuất chip bán dẫn, vốn có giá trị béo bở một con gà đẻ trứng vàng mà ngay chính Trung Quốc cũng đang thèm khát như thế nào. Thế nhưng, chuyển giao công nghệ tinh vi đó cho Việt Nam, thì liệu điều đó được giữ lại trong biên giới Việt Nam hay không? Hay sẽ được chuyển tiếp lên phía bắc cho anh bạn “Môi hở, răng lạnh”? Tương tự như thế với vấn đề quốc phòng…

Chưa kể rằng, sự ưu ái mà Hoa Kỳ và đồng minh dành cho chính quyền Cộng Sản Việt Nam chỉ có tính cách giai đoạn. Vì lẽ, nếu một khi vấn đề Trung Quốc được giải quyết xong, chiến lược bao vây Trung Quốc không còn cần thiết nữa, thì mặc nhiên, sự ưu ái sẽ chấm dứt. Lúc đó, chế độ Cộng Sản tại Việt Nam hoàn toàn mất chỗ chống lưng từ chính quyền Cộng Sản Trung Quốc. Đồng thời, với thái độ ngạo mạn, thiếu nghiêm túc hiện nay lại càng sớm bị Hoa Kỳ và các đồng minh quay lưng, thì khi đó, sự cáo chung của chế độ độc tài là lẽ đương nhiên.

Vấn đề còn lại, sự cáo chung ấy đánh dấu bằng biện pháp hòa bình hoặc đổ máu là hoàn toàn tùy thuộc vào tương quan lực lượng giữa các bên và phản ứng của chế độ Cộng Sản vào thời điểm ấy.

Thế nhưng, lúc này khi còn đang ở thế thượng phong với sự ưu ái từ các cường quốc, chế độ vẫn đang thể hiện đường lối đối ngoại hết sức ngạo mạn, thậm chí côn đồ với thế giới văn minh bên ngoài, mà các phát ngôn đầy khinh suất của ông Phạm Minh Chính, bị vô tình ghi âm được trong chuyến công du đến Hoa Kỳ vào trung tuần tháng 05/2022 đã thể hiện hết sức đầy đủ, chân thực: “Rõ ràng, sòng phẳng, ... nó, sợ gì!”.

(*) Đặng Đình Mạnh là một luật sư nhân quyền đến từ Việt Nam. Trong 10 năm qua, ông tham gia bào chữa trong hơn 80 phiên tòa chính trị. Nhiều người trong số thân chủ của ông là những tù nhân chính trị hoặc những vụ án nổi tiếng như nhà báo Phạm Chí Dũng, Phạm Thị Đoan Trang, Trương Duy Nhất, Huỳnh Thục Vy, ba mẹ con bà Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư, Trịnh Bá Phương, Vụ án Đồng Tâm, Vườn Rau Lộc Hưng, Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ...

Năm 2021 ông bị Bộ Công An ban hành quyết định cấm xuất cảnh. Tháng 02/2023, ông bị Bộ Công An yêu cầu Cơ quan An ninh Điều tra tiến hành điều tra đối với ông.

Tháng 06/2023, ông được chính quyền Hoa Kỳ cho phép nhập cảnh để tỵ nạn chính trị tại Mỹ.

Ghi chú:
[1] Phát biểu của ông nguyễn Phú Trọng tại Phiên khai mạc Đại hội XIII Đảng Cộng Sản Việt Nam vào sáng 26/01/2021