Thiều Quang & Nguyên Phong
Lời Toà Soạn: Loạt bài này từ nhóm tác giả viết cho VOA muốn đối chiếu khoảng cách giữa khát vọng cá nhân với dân khí trong lịch sử cận đại Việt Nam, điều mà theo họ là một trong những trở ngại dai dẳng khiến dân tộc Việt Nam chưa thể bứt phá để sánh ngang các quốc gia phát triển trong khu vực. Sau khi trở thành lãnh đạo tối cao tại Việt Nam, ông Tô Lâm đã vài lần tỏ ra sốt ruột trước sự trì trệ của quốc gia và không ngần ngại nêu lên khát vọng về “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”. Liệu ông Tô Lâm có thể đột phá để thu hẹp khoảng cách vừa đề cập, đặt nền tảng cho một Việt Nam tự do, dân chủ và thịnh vượng? Ngoài việc nêu ra một số so sánh, nhận định, các tác giả còn đề cập đến một số tiền đề với hy vọng biến mong muốn không chỉ của riêng ông Tô Lâm thành hiện thực. Mời độc giả tham khảo và rất mong độc giả đóng góp thêm ý kiến.
***
Cuộc cách mạng lệch chuẩn
Lịch sử là sân khấu của những cá nhân dám đi trước, mở đường cho những đổi thay vĩ đại. Nhưng tiên phong không đồng nghĩa với thành công. Một cá nhân dù có tầm nhìn rất xa cũng không thể tự xoay chuyển bánh xe lịch sử nếu thiếu sự đồng hành của dân tộc.
Có thể xem câu thơ 'Vui gì hơn làm người lính đi đầu / Trong đêm tối tim ta thành ngọn lửa' (Tố Hữu) như một khái quát về tinh thần dấn thân. Nhưng lịch sử đã chứng minh rằng, không phải ngọn lửa nào cũng đủ sức đốt lên bình minh vĩnh cữu. Đôi khi, nó chỉ giúp đoàn người thoát khỏi xiềng xích thực dân để rồi lại rơi vào một bi kịch khác dưới ách thống trị của ‘giai cấp mới’ cầm quyền. Cuộc cách mạng bị phản bội, những lời thề nguyền bị bỏ rơi, và lý tưởng ban đầu bị bóp méo để phục vụ cho những mục tiêu ngược lại với các giá trị dân chủ – cộng hòa.
Trong lịch sử Việt Nam hiện đại, bốn nhân vật – Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm, Lê Duẩn và Võ Văn Kiệt – đều là những người yêu nước theo cách của họ. Các nhân vật này Đó là những con người có ý chí mãnh liệt, nhưng mỗi cá nhân lại đối diện với một thực tế nghiệt ngã: dân khí chưa đủ mạnh, hệ thống chưa sẵn sàng, và thời đại cũng đặt ra những giới hạn khắc nghiệt của nó.
Hồ Chí Minh – Người nổi lửa nhưng bất an vì viễn cảnh
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà cách mạng mà còn là một chiến lược gia hiểu sâu sắc về dân khí. Ông xuất hiện vào thời điểm mà dân tộc đang cần ý chí thống nhất để thoát khỏi xiềng xích thực dân, đế quốc. Thay vì đặt nặng truyền bá tư tưởng, Hồ Chí Minh tìm cách huy động và tổ chức quần chúng, xây dựng dân khí từ những phong trào cụ thể như Việt Minh.
Tuy nhiên, chính Hồ Chí Minh cũng không khỏi lo lắng về tương lai của dân tộc. Câu nói nổi tiếng của ông khi trả lời câu hỏi thuộc cấp – “Một bên Tây, một bên Tàu, bên nào đáng sợ hơn?” Câu trả lời của Hồ Chí Minh “Tây không đáng sợ, Tàu cũng không đáng sợ, mà đáng sợ nhất là các chú!” giống như bộc bạch về sự bất an vì hiểu rằng một cuộc cách mạng không kết thúc sau khi giành được chính quyền (2). Điều quan trọng hơn là liệu dân khí có đủ trưởng thành để duy trì và phát triển một quốc gia theo con đường dân chủ và cộng hòa vững bền hay không.
Những gì xảy ra sau năm 1945 và đặc biệt là từ sau 1954 cho thấy một nghịch lý: Cách mạng thành công về mặt giành độc lập, nhưng sự phát triển của dân khí lại không theo kịp những kỳ vọng ban đầu. Chính quyền tập trung quyền lực, tư tưởng tập thể lấn át tự do cá nhân, và thay vì tạo ra một xã hội khai phóng, Việt Nam bước vào giai đoạn chiến tranh triền miên. Hồ Chí Minh, dù là người thắp lửa, nhưng không thể kiểm soát hoàn toàn hướng đi của đám cháy ấy (3).
Ngô Đình Diệm – Ý chí độc lập bị cô lập
Nếu Hồ Chí Minh là người hiểu rõ sức mạnh của dân khí thì Ngô Đình Diệm lại là người đặt cược tất cả vào ý chí cá nhân và gia đình mình. Ngô Đình Diệm có khát vọng lớn lao về độc lập – ông muốn xây dựng một Việt Nam không bị lệ thuộc vào bất kỳ thế lực ngoại bang nào, dù là Mỹ hay Pháp.
Tuy nhiên, điểm yếu chí mạng của ông nằm ở chỗ ông không thể hòa hợp với những tầng lớp dân chúng đa dạng trong xã hội miền Nam. Trong khi Hồ Chí Minh dùng phương pháp vận động quần chúng thì Ngô Đình Diệm lại dựa vào hệ thống quyền lực mang tính gia đình trị và bảo thủ. Ông tự cô lập trong một vòng tròn quyền lực hẹp, khép kín, khó dung nạp được nhiều luồng tư tưởng khác nhau.
Kết quả là ông không chỉ bị cô lập về mặt chính trị mà còn mất đi sự ủng hộ cần thiết từ dân khí. Khi khủng hoảng nổ ra, chính những người lính từng trung thành với ông đã quay lưng. Ngày 2/11/1963, cái chết của Ngô Đình Diệm không chỉ là cái chết của một cá nhân, mà còn là minh chứng cho bài học lịch sử: Ý chí mạnh mẽ của một nhà lãnh đạo không thể cứu vãn nếu không có sự cộng hưởng từ dân tộc.
Lê Duẩn – Sau thống nhất là khủng hoảng toàn diện
Tổng bí thư Lê Duẩn là nhân vật then chốt trong giai đoạn đấu tranh thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội sau 1975. Ông mang trong mình ý chí mãnh liệt về một Việt Nam thống nhất, độc lập và đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Với Lê Duẩn, giải phóng miền Nam không chỉ là mục tiêu quân sự mà còn là biểu tượng cho sự tất yếu của cách mạng vô sản.
Tuy nhiên, khi chiến tranh kết thúc, Lê Duẩn đối diện với một thực tế đầy thách thức: Đất nước kiệt quệ sau chiến tranh lại phải liên tục đối diện với hai cuộc xung đột; nền kinh tế trì trệ và dân khí chưa đủ mạnh để bước vào giai đoạn phát triển. Mô hình kinh tế tập trung bao cấp mà ông lựa chọn nhanh chóng bộc lộ hạn chế, dẫn đến khủng hoảng kinh tế – xã hội nghiêm trọng trong thập niên 1980.
Lê Duẩn đã nỗ lực giữ vững ý chí cách mạng và đường lối tập trung quyền lực để duy trì sự ổn định chính trị. Nhưng chính sự tập trung quyền lực ấy lại làm giảm khả năng thích ứng và đổi mới cần thiết cho nền kinh tế. Khi ông qua đời năm 1986, đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng toàn diện, buộc những nhà lãnh đạo kế tiếp phải tiến hành công cuộc Đổi Mới. Lê Duẩn là minh chứng cho một người lính tiên phong có ý chí sắt đá, nhưng chưa thể đưa dân tộc vượt qua những giới hạn của hệ thống và bối cảnh thời đại (4).
Võ Văn Kiệt – Muốn thay đổi nhưng không thể vượt ngưỡng
Võ Văn Kiệt không phải là người khai sinh ra một chế độ, mà là người tìm cách điều chỉnh và đổi mới hệ thống hiện có. Nếu Hồ Chí Minh là người mở đường, Ngô Đình Diệm là người nỗ lực xây dựng một con đường riêng, Lê Duẩn là người kiên định đi đến cùng con đường của Hồ Chí Minh, thì Võ Văn Kiệt là người có ý muốn canh cải con đường ấy cả về kinh tế lẫn chính trị, dù vẫn bị ràng buộc bởi những giới hạn của hệ thống.
Võ Văn Kiệt nhìn thấy rõ những bất cập của mô hình kinh tế kế hoạch và là người mạnh dạn thúc đẩy công cuộc Đổi Mới năm 1986. Dưới sự lãnh đạo của ông, Việt Nam chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra một sự bùng nổ kinh tế và đưa hàng triệu người thoát nghèo.
Tuy nhiên, dù Võ Văn Kiệt có tư duy cải cách, ông không thể đi xa hơn khi đụng đến vấn đề chính trị. Ông hiểu rằng để Việt Nam phát triển bền vững, không chỉ cần đổi mới kinh tế mà còn phải có một cơ chế chính trị linh hoạt hơn, cho phép nhiều tiếng nói hơn. Nhưng hệ thống chính trị thời đó không cho phép ông thực hiện điều này. Dân khí tuy có thay đổi một phần, nhưng chưa đủ để tạo ra một sự chuyển biến toàn diện. Võ Văn Kiệt là người biết mơ về bình minh những không bao giờ được thấy mặt trời mọc.
Phát ngôn nổi tiếng của Võ Văn Kiệt về hiện tượng “có hàng triệu người vui nhưng cũng có hàng triệu người buồn” khi bàn về ngày 30/4/1975 cho thấy ông có một cái nhìn xa hơn về dân tộc – một cái nhìn bao dung và thực tế hơn sau khi ông rời chính trường. Nhưng tiếc thay, tầm nhìn ấy cho đến ngày nay vẫn chưa thể trở thành hiện thực, dù số con dân nước Việt hưởng ứng ý tưởng ấy cả trong lẫn ngoài Việt Nam ngày càng đông (5).
Đi đầu làm sao tránh độc hành?
Tất cả những nhân vật kể trên – Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm, Lê Duẩn và Võ Văn Kiệt – đều là những người lính tiên phong trên mặt trận lịch sử. Nhưng lịch sử không chỉ được tạo ra bởi những người đi đầu, mà còn bởi đoàn quân theo sau.
Hồ Chí Minh đã thắp lên ngọn lửa cách mạng, nhưng ông không thể kiểm soát được tất cả những gì xảy ra sau đó. Ngô Đình Diệm có ý chí mạnh mẽ nhưng bị cô lập vì không có sự cộng hưởng từ dân khí. Lê Duẩn kiên định theo đuổi lý tưởng thống nhất nhưng lại đối mặt với giới hạn phát triển sau chiến thắng. Võ Văn Kiệt nhìn thấy con đường đổi mới nhưng không thể thay đổi hoàn toàn hệ thống chính trị xơ cứng và bảo thủ.
Bài học ở đây là gì? Một người lãnh đạo quốc gia, dù xuất sắc đến đâu, cũng không thể thay đổi lịch sử nếu dân tộc không sẵn sàng đồng hành với họ. Nếu không có đoàn quân phía sau, người lính tiên phong có thể mãi chỉ là kẻ lầm lũi bước tới hư vô. Bộ máy tuyên truyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng thường xuyên “tụng niệm” phép mầu này. Đáng tiếc là giữa lý luận của Đảng và thực tiễn của xã hội cách nhau một trời một vực (6).
Trong thời đại “số hóa” ngày nay, điều này càng trở nên rõ ràng hơn. Ý chí cá nhân không còn là yếu tố duy nhất có tính quyết định – mà chính dân khí, tư duy cộng đồng mới là những yếu tố làm nên sự bền vững của một quốc gia. Người lãnh đạo ở thế kỷ 21 không chỉ cần có tầm nhìn, mà còn phải biết cách tạo ra một môi trường nơi dân khí, dân trí và dân sinh cộng hưởng đủ mạnh để có thể phát triển và tự khẳng định vị thế quốc gia trong một môi trường địa - chính trị còn bất ổn dài dài.
(Kỳ cuối: Tô Lâm sẽ khởi được ‘Quẻ Càn’? – Tầm Nhìn Triết Lý ‘Thời Đại Số’)
Tham khảo:
(1) https://vanviet.info/thu-ban-doc/giai-cap-moi-cua-milovan-djilas/?utm_source=chatgpt.com
(2) https://baophuyen.vn/76/9954/-dang-so-nhat-la-cac-chu-.html?utm_source=chatgpt.com
(3) /a/phong-van-giao-su-nguyen-lien-hang-tac-gia-cua-hanois-war/1582198.html
(5) https://nguoidothi.net.vn/tran-tro-nho-mot-tam-nhin-13984.html