Cuộc bầu cử tại Myanmar đã kết thúc. Tuy chưa có kết quả chính thức nhưng qua số phiếu đã đếm, người ta được biết đảng Liên minh Dân chủ Toàn quốc do bà Aung San Suu Kyi lãnh đạo chắc chắn sẽ chiến thắng vang dội với khoảng 80% phiếu bầu. Đây là cuộc bầu cử tự do đầu tiên tại nước này kể từ năm 1990, năm bà Aung San Suu Kyi cũng thắng cử lớn nhưng giới quân nhân lại không công nhận, hơn nữa, còn quản thúc bà, có lúc còn bắt bà bỏ tù để tiếp tục nắm giữ quyền hành một cách độc đoán trong suốt gần 25 năm vừa qua.
Trong lần bầu cử này, tình hình có vẻ khả quan hơn. Với sự hiện diện đông đảo của các nhà quan sát quốc tế, cuộc bầu cử diễn ra một cách tự do và minh bạch, không hề có bất cứ dấu hiệu đàn áp hay gian lận lớn nào. Khi kết quả bầu cử đã khá rõ, đảng Liên minh Đoàn kết và Phát triển hiện đang cầm quyền tuyên bố thua cuộc và chấp nhận phán quyết của các cử tri. Tổng thống Thein Sein, sau khi chúc mừng bà Suu Kyi, đã tuyên bố tôn trọng kết quả bầu cử và hứa hẹn sẽ sớm tiến hành các cuộc thương thảo với bà Suu Kyi để thành lập chính phủ mới.
Khả quan, nhưng con đường phía trước còn khá nhiều gập ghềnh. Thứ nhất, theo hiến pháp do các nhà quân phiệt trước đây soạn thảo, để lên làm tổng thống, toàn bộ gia đình người ấy phải có quốc tịch Myanmar, và như vậy, bà Suu Kyi sẽ không thể trở thành tổng thống Myanmar được vì chồng bà (đã quá cố) và hai đứa con bà đều mang quốc tịch Anh. Bà Suu Kyi cho biết, với tư cách lãnh tụ đảng cầm quyền, bà sẽ lãnh đạo từ đằng sau hay phía trên tổng thống mới. Tuy nhiên, điều đó đòi hỏi một cấu trúc quyền lực mới, chưa từng có tại Myanmar. Không ai biết được kiểu cấu trúc mới ấy có thực sự có hiệu quả hay không. Thứ hai, quyền lực của giới quân đội vẫn còn khá lớn: Một là, họ được phân bố 25% số ghế trong cả Thượng viện lẫn Hạ viện mà không cần phải ứng cử và tranh cử. Hai là, họ được ưu tiên nắm giữ các chức vụ quan trọng như bộ trưởng quốc phòng, bộ trưởng nội an và bộ trưởng an ninh biên giới. Như vậy, để làm việc có hiệu quả, đảng Liên minh Dân chủ Toàn quốc của bà Suu Kyi phải hợp tác chặt chẽ với phe quân đội, một điều rất khó khăn vì trong suốt 25 năm qua, quan hệ giữa họ nhuốm đầy cay đắng. Họ không những không tin nhau mà còn thù hận nhau. Công việc đầu tiên của chính phủ mới, do đó, sẽ là một nỗ lực hoà giải thực sự, theo đó, mọi người cùng quên đi quá khứ để vững tiến về tương lai, nhằm phát triển đất nước không những chỉ trong lãnh vực kinh tế mà còn trong lãnh vực chính trị với ưu tiên là càng ngày càng tự do và dân chủ hơn.
Bất kể những khó khăn và thử thách còn trùng trùng trước mắt, mọi người, từ dân chúng Myanmar đến các chính khách Tây phương, đều vui mừng, xem cuộc bầu cử vừa qua là một sự đột phá trong tiến trình dân chủ hoá tại Myanmar. Nhiều người Việt Nam cũng chia sẻ sự vui mừng ấy và tự hỏi: Bao giờ thì một sự kiện quan trọng như vậy sẽ diễn ra ở Việt Nam?
Vâng, bao giờ thì Việt Nam có được một cuộc bầu cử tự do như Myanmar?
Trước khi trả lời câu hỏi ấy, cần lưu ý là tiến trình dân chủ hoá tại Myanmar mà kết quả cụ thể là cuộc bầu cử tự do vào ngày 8 tháng 11 vừa qua xuất phát từ ba yếu tố chính: Thứ nhất, họ có một lãnh tụ khôn ngoan, can đảm và được mọi người, từ dân chúng Myanmar đến cộng đồng quốc tế yêu mến và tin cậy, đó là bà Aung San Suu Kyi, người được trao giải Nobel Hoà bình năm 1991. Thứ hai là sự thức tỉnh của giới lãnh đạo Myanmar: sau mấy chục năm cai trị đất nước với bàn tay sắt dẫn đến hậu quả là đất nước càng ngày càng bị cô lập và nghèo đói, từ năm 2011, giới quân phiệt quyết định thay đổi chính sách bằng cách cho thành lập một chính phủ dân sự, thả các tù nhân chính trị, cởi bỏ hệ thống kiểm duyệt, chấp nhận đa đảng, cho phép tiến hành các cuộc bầu cử tự do. Thứ ba là ý thức chính trị rất cao của dân chúng Myanmar: theo quan sát của giới truyền thông quốc tế, trong ngày bầu cử vừa qua, người ta đã đổ xô đi bầu một cách rất tích cực. Người ta bỏ công ăn việc làm để đi bầu cử. Người ta kiên nhẫn đứng xếp hàng rồng rắn trước các thùng phiếu cả nhiều tiếng đồng hồ để được bỏ phiếu. Nhiều người thuộc gia đình quân nhân, đáng lẽ bỏ phiếu cho đảng cầm quyền vốn thân quân đội, vẫn quyết định bỏ phiếu cho đảng Liên minh Dân chủ Toàn quốc của bà Suu Kyi với ước vọng đất nước được thay đổi.
Những yếu tố ấy có ở Việt Nam hay không?
Câu trả lời rất đáng buồn: Không có. Hay, lạc quan hơn chút: Chưa có.
Việt Nam chưa có một lãnh tụ đối kháng nào có tầm vóc như bà Suu Kyi. Nhỏ hơn một chút, cũng chưa có. Hoàn toàn chưa có. Chúng ta có nhiều người quan tâm đến đất nước, đủ can đảm để lên tiếng phản đối các chính sách độc tài của nhà cầm quyền, sẵn sàng chấp nhận các hành động trấn áp thô bạo và đê hèn của nhà cầm quyền, nhưng chưa có ai, trong họ, nổi bật hẳn lên như một lãnh tụ. Họ đều là chiến sĩ chứ chưa phải là lãnh tụ. Tên tuổi của họ chưa đủ lớn để thu hút sự chú ý của cả người Việt lẫn người ngoại quốc. Chung quanh họ chưa có một tổ chức nào đủ mạnh để có thể được xem là một lực lượng đối trọng của chính phủ.
Giới lãnh đạo Việt Nam, cho đến nay, vẫn chưa có sự tỉnh ngộ như giới lãnh đạo Myanmar. Tất cả những người từng muốn thay đổi theo xu hướng ít nhiều dân chủ hoá, như Trần Xuân Bách (1924-2006) hay Trần Độ (1923-2002), đều đã qua đời. Trong giới lãnh đạo hiện nay, không có người nào có tầm nhìn mới và đủ dũng khí để bênh vực cho tầm nhìn mới của mình. Tất cả hầu như chỉ tập trung vào việc bảo vệ lợi ích của bản thân; và để bảo vệ lợi ích của bản thân, họ phải bảo vệ đảng. Mà đảng thì càng lúc càng xa rời quần chúng, hơn nữa, càng đi ngược lại các lợi ích của dân tộc.
Cuối cùng, hình như dân Việt Nam, nói chung, chưa có được ý thức chính trị sâu sắc và mạnh mẽ như người dân Myanmar. Đã nhiều người ghi nhận một hiện tượng phổ biến ở Việt Nam hiện nay: chứng vô cảm. Rất ít người thực sự quan tâm đến đất nước. Phần lớn chỉ loay hoay kiếm sống, hoặc khi đã có rủng rỉnh chút tiền bạc, mải mê hưởng thụ. Việt Nam càng lúc càng bế tắc, kinh tế càng lúc càng suy thoái, đạo đức xã hội càng lúc càng suy đồi: người ta mặc kệ. Trung Quốc càng lúc càng lộng hành ngoài biển và đảo Việt Nam: người ta cũng mặc kệ. Chủ nghĩa mặc-kệ-nó lan tràn ở mọi giới.
Nhưng như vậy, chúng ta tuyệt vọng chăng?
Thật ra, cũng không hẳn. Kinh nghiệm mùa xuân Ả Rập vào đầu năm 2011 cho chúng ta một bài học khác: Cuộc cách mạng nổ ra một cách hoàn toàn tự phát, không hề có sự chuẩn bị nào từ dân chúng, không hề có sự thức tỉnh của giới cầm quyền và cũng không hề có một nhà lãnh đạo nào cả. Vậy mà, chỉ trong vòng chưa tới một năm, cả mấy chế độ độc tài lần lượt bị sụp đổ.
Nếu các chế độ độc tài được hình thành theo nhiều cách, sự sụp đổ của chúng cũng rất khác nhau.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.