Tìm hiểu bệnh não ở môn quyền Anh

  • Joe De Capua

Muhammad Ali (trái) và Joe Frazier trong trận đấu quyền Anh 12 hiệp ngày 28 tháng 1, 1974 ở Madison Square Garden, New York.

Từ lâu nhiều người vẫn tin rằng các đấu thủ quyền Anh và vận động viên của một số môn thể thao khác có thể bị tổn thương não do phải thường xuyên chịu những cú đấm hoặc những va chạm vào đầu. Một cuộc nghiên cứu mới đang tìm hiểu xem khi nào thì những tổn thương ở não bắt đầu và bao lâu sau thì các triệu chứng xuất hiện. Các nhà khoa học nói rằng cuộc nghiên cứu này có thể đem lại những lời khuyên về sự an toàn hơn cho các môn thể thao mang tính va chạm nhiều.

Cuộc nghiên cứu về sức khỏe não bộ của các võ sĩ chuyên nghiệp đang được tiến hành ở các môn thể thao đối kháng. Tham gia cuộc nghiên cứu tính đến nay có 109 võ sĩ của môn quyền Anh và môn võ hỗn hợp MMA, và tuổi trung bình của các vận động viên này là 29 tuổi.

Chủ nhiệm cuộc nghiên cứu là Bác sĩ Charles Bernick. Ông cho biết các môn thể thao đối kháng từ lâu vẫn liên hệ tới chứng thoái hóa não, tức chấn thương não kinh niên, còn được gọi tắt theo tiếng Anh là CTE.

Bác sĩ Bernick nói “Chưa có ai thực sự biết được diễn tiến của những cú đấm thường xuyên vào đầu của một người chuyển thành bệnh não kinh niên như thế nào. Diễn tiến thực sự của nó ra làm sao?”

Bác sĩ Bernick là phó giám đốc Trung tâm Y khoa Lou Ruvo chuyên về sức khỏe não, và là hội viên của Viện Thần kinh học Mỹ. Ông cho biết cuộc nghiên cứu này tập trung vào 3 vấn đề.

Bác sĩ Bernick nói: “Một là tìm hiểu xem nếu chúng ta có thể phát hiện được những thay đổi sớm nhất hay nhỏ nhất của chấn thương xảy ra ở não của các vận động viên hoặc những người có nhiều nguy cơ bị chấn thương ở đầu, rồi tiến đến xác định những chấn thương đó có thể phát triển thành chấn thương não kinh niên. Và rồi cuối cùng là để xác định những yếu tố nào khiến cho người này lại có nhiều nguy cơ chịu chấn thương gia tăng hơn là người khác, bởi vì rõ ràng là không phải mọi võ sĩ hay vận động viên có nhiều nguy cơ bị chấn thương đầu rốt cuộc đều bị chấn thương não kinh niên.

Bác sĩ Bernick giải thích rằng người nào bị chấn thương đầu càng nhiều thì càng có nguy cơ bị chấn thương não kinh niên, còn gọi là chứng mất trí của đấu thủ quyền Anh chuyên nghiệp.

Bác sĩ Bernick nói: “Điều mà chúng ta không biết là có hay không một ngưỡng giới hạn. Não có khả năng chịu đựng rất lớn và rồi nếu chúng ta vượt qua ngưỡng giới hạn đó thì khi đó chúng ta sẽ bước vào tiến trình bộc phát của căn bệnh. Do đó điểm thứ nhất là tìm hiểu ngưỡng giới hạn đó, và câu hỏi thứ hai là: những thay đổi có diễn ra ở não của các vận động viên này hay không ngay cả trong trường hợp không thấy có bất cứ triệu chứng nào.

109 võ sĩ quyền Anh và võ hỗn hợp tham gia cuộc nghiên cứu được phân làm 3 nhóm, căn cứ vào số năm đã tham gia thi đấu của mỗi đấu thủ.

Bác sĩ Bernick giải thích: “Nhóm thứ nhất gồm các võ sĩ đã thi đấu dưới 6 năm, nhóm thứ hai là các võ sĩ đã thi đấu từ 6 đến 12 năm, và nhóm thứ ba là các võ sĩ đã có thâm niên trên 12 năm. Chúng tôi nghiên cứu mỗi nhóm để tìm hiểu xem có một sự liên hệ nào giữa số trận đấu mà các võ sĩ này đã đấu với những thay đổi hoặc là trong kích thước của một số vùng nhất định ở não hoặc là khả năng của họ làm các kiểm tra về tốc độ phản ứng, trí nhớ .v.v.

Bác sĩ Bernick cho biết cuộc nghiên cứu ở năm thứ nhất cho ra kết quả về kích thước của não: “Ở nhóm các võ sĩ đã thi đấu hơn 6 năm, các võ sĩ có số trận đấu càng nhiều thì hình như kích thước của một số vùng nhất định trên não của họ bị teo lại mà chúng tôi có thể đo được. Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy sự thay đổi về khả năng thực hiện các kiểm ra chỉ ở nhóm vận động viên đã thi đấu hơn 12 năm. Điều này gợi ra hai khả năng. Thứ nhất, như tôi đã trình bày, đó là có thể có một cái ngưỡng giới hạn. Có nghĩa là não có thể có khả năng chịu đựng đến một mức nhất định các chấn thương đầu và rồi nếu chúng ta vượt quá cái ngưỡng đó thì tiến trình bị teo lại ở một số vùng trên não thực sự sẽ bắt đầu. Tuy nhiên tiến trình này kéo dài trong nhiều năm trước khi bệnh nhân bắt đầu có các triệu chứng."

Các nhà nghiên cứu dùng các ảnh chụp não bộ bằng máy chụp cộng hưởng từ, gọi tắt theo tiếng anh là MRI, để nghiên cứu 2 vùng não; một là chỗ phồng ở sàn não thất bên, tức vùng não có liên quan đến trí nhớ, và hai là đồi não, tức vùng não có liên quan đến việc truyền các tín hiệu cảm giác và vận động, và giúp lập thói quen của giấc ngủ và tạo những cảnh giác trong các chức năng khác.

Bác sĩ Bernick giải thích: “Thực tế các vùng não này bị thu nhỏ lại thậm chí rất sớm khi các võ sĩ vẫn đang trong thời kỳ thi đấu.”

Ông nói rằng có khả năng những vùng não khác cũng bị ảnh hưởng, nhưng chưa có nghiên cứu về các vùng não đó. Ông so sánh sự ổn định của não với chất gelatin. Ông nói trong chấn thương đầu thì các sợi não có thể bị xoắn và bị quất vào.

Cuộc nghiên cứu cần phải được thực hiện ở địa điểm thích hợp, thuận tiện cho việc khám nghiệm các đấu thủ quyền Anh và võ hỗn hợp.

Bác sĩ Bernick giải thích: “Do đó mà chúng tôi tiến hành cuộc nghiên cứu ở Las Vegas, vì đây chính là thủ đô đấu võ của thế giới. Rất nhiều võ sĩ tập luyện ở thành phố này, và tất nhiên rất nhiều trận đấu diễn ra tại đây.”

Ông nói cuộc nghiên cứu được sự ủng hộ lớn trong ngành đấu võ, cũng như các nhà tổ chức trận đấu và Ủy ban Thể thao bang Nevada.

Bác sĩ Bernick nói: “Chúng tôi hy vọng cuộc nghiên cứu sẽ cung cấp cho các cơ quan quản lý, các ủy ban thể dục thể thao, và cũng có thể cho các môn thể thao khác như bóng bầu dục, hay khúc côn cầu v.v. một hướng dẫn khách quan cách bảo vệ cho các vận động viên. Nói một cách khác, chẳng hạn như một đấu thủ 35 tuổi đến xin cấp giấy phép thi đấu tại bang Nevada, thì căn cứ vào đâu để ủy ban thể dục thể thao của bang này quyết định có cấp giấy phép cho đấu thủ đó hay không. Thực sự là chưa có một biểu điểm khách quan nào."

Mặc dù kết quả tổng thể của cuộc nghiên cứu đã được phổ biến, kết quả của từng cá nhân được trao lại cho từng võ sĩ trên cơ sở giữ kín thông tin. Cuộc nghiên cứu sẽ tiếp tục theo dõi và lấy thông tin từ các võ sĩ đó.

Bác sĩ Bernick nói rằng mục tiêu của cuộc nghiên cứu không phải là để loại bỏ bất cứ môn thể thao nào, mà là để giúp tạo ra những điều kiện an toàn hơn cho các vận động viên. Ví dụ như các đấu thủ quyền Anh có thể thi đấu số trận ít hơn trong một năm. Kết quả nghiên cứu này cũng có thể được áp dụng cho các lãnh vực khác, chẳng hạn như có thể được dùng để giúp cho nhiều nạn nhân chấn thương đầu trong quân đội.