Trân Văn
“Điểm đến mới – giá trị mới” vốn là slogan mà Công ty Long Biên dùng để quảng cáo cho sân golf Tân Sơn Nhất, tuy nhiên những tình tiết liên quan đến sân golf này lại cho thấy, nên dành slogan ấy cho Bộ Quốc phòng Việt Nam.
Hai “giải an ủi”
Phi trường Tân Sơn Nhất được xây dựng vào thập niên 1930 tại xã Tân Sơn Nhất, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định. Trước tháng 4 năm 1975, khu vực Tân Sơn Nhất vừa có phi trường dân sự, phi trường quân sự, vừa có một số căn cứ quân sự. Tổng diện tích của khu vực Tân Sơn Nhất khỏang 1.900 héc ta, phần lớn được để trống cả vì lý do an ninh lẫn phải dành sẵn quỹ đất dự phòng để có thể mở rộng khi cần.
Sau tháng 4 năm 1975, giống như nhiều khu vực khác trên toàn Việt Nam, phi trường quân sự và các căn cứ ở khu vực Tân Sơn Nhất trở thành lãnh địa của Bộ Quốc phòng Việt Nam.
Từ giữa thập niên 1980, Bộ Quốc phòng Việt Nam bắt đầu phân lô, cấp đất cho các sĩ quan làm nhà và giao đất cho các đơn vị dùng thay vốn để liên doanh. Khu vực Tân Sơn Nhất trở thành “vô chính phủ” – có dân cư nhưng không có hệ thống chính quyền, các viên chức dân sự, kể cả công an không có quyền lai vãng.
Đến giữa thập niên 1990, Bộ Quốc phòng Việt Nam mới bắt đầu chuyển giao các khu dân cư do họ tạo ra cho chính quyền TP.HCM để thiết lập hệ thống hành chính, tổ chức cấp điện, cấp nước, thoát nước, kể cả hộ khẩu cho cư dân trong các khu dân cư trên “đất quốc phòng”. Bộ Quốc phòng Việt Nam tiếp tục sở hữu phần đất còn lại.
Bởi được phép hành xử như lãnh chúa trên lãnh địa riêng, chính Bộ Quốc phòng Việt Nam đã thu hẹp diện tích phi trường Tân Sơn Nhất từ 1.900 héc ta xuống còn… 850 héc ta.
Gần đây, phi trường Tân Sơn Nhất bị nghẽn cả dưới đất lẫn trên trời vì quá tải, càng ngày càng dễ ngập... Tuy đó là hậu quả nhãn tiền do tùy tiện trong phân bổ - sử dụng đất suốt từ giữa thập niên 1970 đến nay và dù cả Bộ Quốc phòng Việt Nam lẫn chính phủ Việt Nam cùng thừa nhận, sự tùy tiện ấy là lý do khiến Tân Sơn Nhất nát bét, khó cứu vãn song không bên nào muốn chấm dứt sự tùy tiện này.
Đầu thập niên 2010, Lấy lý do lưu lượng phi cơ, hành khách dân sự càng ngày càng tăng mà không thể mở rộng phi trường Tân Sơn Nhất, Cục Hàng không Việt Nam và Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam trình kế hoạch vay 18,7 tỉ Mỹ kim để xây dựng một phi trường mới tại Long Thành, Đồng Nai. Kế hoach đó bị nhiều chuyên gia kinh tế và hàng không phản đối vì phí tổn quá lớn và mức độ tác động đến kinh tế - xã hội theo hướng tiêu cực rất khó lường. Chẳng hạn nợ nần của quốc gia sẽ tăng mà không có gì bảo đảm dự án phi trường Long Thành sẽ sinh lợi. Theo nhiều chuyên gia, thay vì xây dựng phi trường Long Thành thì nên mở rộng phi trường Tân Sơn Nhất về hướng Bắc bởi tại đó đang còn 157 héc ta đất. Tuy nhiên đề nghị vừa kể bất khả thi bởi 157 héc ta đất ấy là… tài sản của Bộ Quốc phòng Việt Nam. Bộ Quốc phòng Việt Nam đã “trót” cho Công ty Long Biên thuê và không muốn lấy lại.
Bất kể khuyến cáo của các chuyên gia và phản đối của dân chúng, chính phủ Việt Nam vẫn chừa 157 héc ta đất phía Bắc phi trường Tân Sơn Nhất để Bộ Quốc phòng Việt Nam cho thuê, vay tiền xây dựng phi trường Long Thành và an ủi mọi người bằng cách tính lại chi phí xây dựng phi trường Long Thành. Theo tính toán mới của Bộ Giao thông - Vận tải Việt Nam, Việt Nam sẽ chỉ mất… 15,8 tỉ Mỹ kim thay vì phải chi tới 18,7 tỉ Mỹ kim cho dự án phi trường Long Thành.
Tranh luận qua lại cho tới đầu năm nay, Bộ Quốc phòng Việt Nam quyết định thực hiện thêm một hành động nữa để an ủi dân chúng Việt Nam là giao 21 héc ta “đất quốc phòng” ở Tân Sơn Nhất cho việc mở rộng phi trường Tân Sơn Nhất trong giai đoạn chờ dự án xây dựng phi trường Long Thành hoàn tất!
Có hai tình tiết đáng chú ý trong sự kiện Bộ Quốc phòng Việt Nam nhượng 21 héc ta đất để mở rộng phi trường Tân Sơn Nhất: (1) Song song với việc giao 21 héc ta đất, Bộ Quốc phòng Việt Nam giành quyền chọn nhà đầu tư, nhà thầu có năng lực thực hiện việc xây dựng thêm nhà ga, cải tạo, mở rộng đường lăn, bãi đậu phi cơ, trung tâm bảo trì - sửa chữa phi cơ. (2) Để có 21 héc ta “đất quốc phòng” giao lại cho chính phủ Việt Nam, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã điều động các đơn vị quân đội đang trú đóng quanh phi trường Tân Sơn Nhất ra khỏi đó chứ dứt khoát không đụng đến 157 héc ta “đất quốc phòng” mà Công ty Long Biên đang thuê.
Nói cách khác, tiếng là “đất quốc phòng” nhưng sự hiện diện của các đơn vị phòng không – không quân ở Tân Sơn Nhất chẳng là gì cả so với… Công ty Long Biên.
Xét một cách công bằng thì chính quyền “của dân, do dân, vì dân” và giới lãnh đạo đội quân “trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, cũng đã bày tỏ sự quan tâm nhất định đến “tâm tư, nguyện vọng của nhân dân”. Ít nhất cũng đã có hai “giải an ủi” được trao cho đám đông đang thất vọng ê chề!
“Giải đặc biệt” thu hồi toàn bộ “đất quốc phòng” để mở rộng phi trường Tân Sơn Nhất, ngưng xây dựng phi trường Long Thành đang chờ kỳ xổ mới.
Kết luận của Thủ tướng Việt Nam hôm 12 tháng 6 chỉ là “thuê tư vấn có đủ năng lực để khảo sát - nghiên cứu đề xuất các phương án mở rộng cả về phía Bắc (khu vực sân golf Tân Sơn Nhất) lẫn phía Nam”. Đã có khá nhiều người nhầm lẫn kết luận mang tính trấn an, khuyến dụ mọi người bình tâm chờ chính phủ “mời các em ra quay số” là kết quả “giải đặc biệt”!
“Điểm đến mới” và “giá trị mới”
Cho đến nay, người ta chưa rõ tại sao giới lãnh đạo Bộ Quốc phòng Việt Nam lại chọn Công ty Long Biên để liên tục giao “đất quốc phòng” cho công ty này đầu tư làm sân golf.
Long Biên không chỉ được thuê 157 héc ta “đất quốc phòng” thuộc phi trường Tân Sơn Nhất làm sân golf, công ty này còn là chủ đầu tư sân golf Long Biên với diện tích 112 héc ta, vốn là đất của phi trường quân sự Gia Lâm ở Hà Nội.
Giống như sân golf Tân Sơn Nhất, quá trình đầu tư – xây dựng sân golf Long Biên cũng có hàng loạt sai phạm được xác định là nghiêm trọng (sai qui hoạch chi tiết, tự ý thay đổi thiết kế đã được phê duyệt – xây dựng thêm nhiều khối nhà không có trong giấy phép, làm thêm tầng cho một số khối nhà khác, thu hẹp hệ thống giao thông nội bộ và hệ thống xử lý nước thải,…) song cũng giống như sân golf Tân Sơn Nhất, Công ty Long Biên vẫn “bình an, vô sự”.
Sân golf Tân Sơn Nhất và sân golf Long Biên không chỉ để chơi golf. Kèm theo golf là các khách sạn 5 sao, nhà hàng, các biệt thự, apartment cao cấp để cho thuê, với giá cho thuê tính bằng Mỹ kim. Người ta tin rằng đó mới là mục tiêu chính của Công ty Long Biên.
Cho đến nay, người ta cũng chưa rõ Công ty Long Biên đã trả Bộ Quốc phòng Việt Nam bao nhiêu tiền để Bộ Quốc phòng Việt Nam xua các đơn vi phòng không – không quân ở phi trường Tân Sơn Nhất và phi trường Gia Lâm đi nơi khác, dành đất cho Công ty Long Biên thực hiện các dự án sân golf. Số tiền đó chắc chắn chẳng là bao so với giá thực của thị trường nhưng đó chưa phải là điều đáng bận tâm nhất.
Điều đáng bận tâm nhất là khi có thể di chuyển các đơn vị phòng không – không quân đi nơi khác, việc bảo vệ không phận, các phi trường không còn cần thiết nữa thì tại sao Bộ Quốc phòng Việt Nam không giao trả hoặc chính phủ Việt Nam không tiến hành thu hồi “đất quốc phòng” tại phi trường Tân Sơn Nhất và phi trường Gia Lâm cho những mục tiêu quan trọng hơn đối với “quốc kế, dân sinh”?
Ngược lại, nếu việc phòng vệ không phận, các phi trường vẫn là chuyện quan trọng thì tại sao quốc phòng lại bị gạt bỏ để ưu tiên cho một công ty thường xuyên báo lỗ khi khai thuế hàng năm?
Tướng Lâm Quang Đại, Chính ủy quân chủng Phòng không – Không quân giải thích với báo giới rằng, Bộ Quốc phòng sẽ thu hồi đất dành cho các sân golf ngay lập tức khi có nhu cầu về quốc phòng! Từ trước đến nay, ngoài Việt Nam, có quốc gia nào xem “quốc phòng” là “sẽ” tổ chức phòng vệ “sau khi” đã tan tành do bị tấn công?
Sân golf Tân Sơn Nhất đã trở thành scandal kéo dài suốt sáu năm. Bất chấp nhân tâm, Bộ Quốc phòng Việt Nam vẫn tìm đủ cách chống đỡ cho Công ty Long Biên. Ông Nguyễn Thành Trung, cựu đại tá không quân nhân dân Việt Nam, mới khái quát thực tế ấy thành một thắc mắc: Tại sao lại để cho một sân golf “làm phiền cả nước”?
Luôn khẳng định “từ nhân dân mà ra” nhưng giới lãnh đạo Bộ Quốc phòng Việt Nam không bận tâm đến chuyện dân chúng nghĩ gì và muốn gì. Thời gian vừa qua, mục tiêu chính trong cách hành xử chung của giới lãnh đạo Bộ Quốc phòng Việt Nam là tập trung vào lợi ích của một số công ty mà Long Biên chỉ là một.
Hồi tháng ba, tờ Tuổi Trẻ công bố một loạt bài điều tra về khai thác cát. Theo đó, trong thập niên vừa qua, bất kể các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực tại Việt Nam liên tục nhắc nhở rằng, cát không chỉ là khoáng sản hay vật liệu xây dựng mà còn là nền móng lãnh thổ, chính quyền Việt Nam vẫn làm ngơ, để mặc giới hữu trách từ trung ương đến địa phương thi nhau cấp giấy phép hoặc “thỏa thuận miệng” cho một số doanh nghiệp thi nhau khai thác cát.
Tổng cục Hải quan Việt Nam từng thống kê, từ 2007 đến 2016, Việt Nam đã xuất cảng 67 triệu mét khối cát.
Trong giai đoạn từ 2007 đến 2009, cát xuất cảng chủ yếu được móc từ lòng các con sông ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long với khối lượng khoảng 24 triệu mét khối.
Do bị các chuyên gia và dân chúng phản ứng kịch liệt, cuối năm 2009, chính phủ Việt Nam cấm xuất cảng cát. Đến năm 2013, Bộ Xây dựng Việt Nam tìm ra một con đường mới để tiếp tục móc cát mang đi bán: Giao cho một số doanh nghiệp tự bỏ tiền “khai thông, nạo vét luồng lạch” rồi được “tận thu, xuất cảng” cái gọi là “cát nhiễm mặn” để trang trải chi phí. Bộ Xây dựng Việt Nam gọi con đường mới này là “xã hội hóa hoạt động bảo đảm hàng hải”!
Hậu quả nay đã nhãn tiền, sạt lở ở sông, suối, bờ biển xảy ra khắp nơi, không thể ngăn chặn. Trong vài năm gần đây, mỗi năm, riêng khu vực đồng bằng sông Cửu Long đã mất năm cây số vuông mặt đất do sạt lở tại sông rạch và bờ biển.
Khai thác cát không chỉ khiến lãnh thổ bị thu hẹp mà còn hủy hoại tài sản và hủy diệt sinh kế của dân chúng ở những khu vực bị giới hữu trách gật đầu cho một số doanh nghiệp móc cát. Đó cũng là lý do dẫn tới hàng trăm cuộc biểu tình, một số biến thành bạo động suốt từ ngoài Bắc vào tới trong Nam.
Cần nhắc lại rằng, dẫn đầu “xã hội hóa hoạt động bảo đảm hàng hải” chính là Bộ Quốc phòng Việt Nam. Dự án “khai thông, nạo vét luồng lạch, tận thu cát nhiễm mặn” duy nhất tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long là dự án do Vùng 5 Hải quân làm chủ đầu tư, giao cho Công ty Hải Việt thực hiện. Hải Việt bán quyền khai thác một triệu khối cát cho công ty khác, ngồi không hưởng lợi 21.000 đồng/khối. Bất kể chính quyền tỉnh Kiên Giang phản đối việc móc cát quanh đảo Phú Quốc xuất cảng sang Singapore trong khi các công trình xây dựng trên đảo Phú Quốc phải chở cát từ đất liền ra, các tàu chở cát của ngoại quốc vẫn đến Phú Quốc thả neo, nhận cát rồi nhổ neo, chở đi hàng triệu mét khối cát!
Ngoài Vùng 5 Hải quân, Bộ Quốc phòng Việt Nam còn giao cho Bộ Tư lệnh các Vùng 4, Vùng 3 của Hải quân làm chủ đầu tư hai dự án “khai thông, nạo vét luồng lạch, tận thu cát nhiễm mặn” ở Cam Ranh, Khánh Hòa và Đà Nẵng.
Tháng 4 năm 2015, dân chúng thị xã Cam Ranh từng đổ ra quốc lộ 1 biểu tình phản đối việc Vùng 4 Hải quân giao cho Công ty Cái Mép “khai thông, nạo vét luồng lạch, tận thu cát nhiễm mặn” ở đầm Thủy Triều khiến tôm, cá nuôi tại các ao quanh đầm chết sạch, trong khi việc bồi thường và hỗ trợ di dời thì lại không thỏa đáng. Cuộc biểu tình khiến quốc lộ 1 bị nghẽn ba ngày.
Chuyện “khai thông, nạo vét luồng lạch, tận thu cát nhiễm mặn” ở đầm Thủy Triều tạm ngưng một thời gian, đến tháng 9 năm 2015, khi dự án “khai thông, nạo vét luồng lạch, tận thu cát nhiễm mặn” khởi động trở lại, xung đột đã bùng lên giữa các tàu mà Vùng 4 Hải quân cử đi theo để bảo vệ những xà lan móc cát.
Lúc đó, có hai trong số 60 ghe, xuồng của dân chúng phường Cam Phúc Bắc tham gia ngăn chặn việc “khai thông, nạo vét luồng lạch, tận thu cát nhiễm mặn” ở đầm Thủy Triều bị đâm chìm. Hàng chục người bị bắt, bị phạt tù vì “gây rối trật tự công cộng”, cản trở việc thực hiện một… “dự án quốc phòng”!
Những chuyện như vừa kể chỉ ra một điều: Với Bộ Quốc phòng Việt Nam, “bảo quốc” hay “an dân” đã lạc hậu. Quân đội nay phải “làm kinh tế”! Chưa có thống kê nào cho thấy việc quân đội “làm kinh tế” hỗ trợ thế nào cho quốc phòng, người ta chỉ thấy chủ các doanh nghiệp tham gia “làm kinh tế” cùng với quân đội có thể “đội đá, vá trời”, làm được những chuyện tày đình.
Thỉnh thoảng người ta lại thấy trên Internet những thông tin xa, gần về khối tài sản càng ngày càng khổng lồ của các viên tướng lãnh đạo Bộ Quốc phòng, chỉ huy các Tổng cục, các Cục, các Quân khu, Quân đoàn,… nhưng chuyện cũng chỉ đến đó. Bởi quân đội còn, công an còn thì Đảng mới còn nên quân đội hay công an vẫn là “cấm địa”. Quân đội dường như đã có “điểm đến mới” là tài sản, tài khoản cá nhân của các tướng. “Giá trị mới” giờ là con số trong những tài sản, tài khoản đó.
Khi mà chỉ vài ông chủ của một số công ty có thể lèo lái Bộ Quốc phòng Việt Nam theo ý mình thì ai dám chắc những ông tướng đang lãnh sứ mệnh “bảo quốc, an dân” luôn luôn “kiên định” trước tác động đủ mặt của các thế lực thật sự là thù địch của dân tộc này?