Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, nhà lãnh đạo Phật giáo nổi tiếng thế giới, vừa viên tịch vào lúc nửa đêm ngày 22/1 năm 2022 ở Tổ đình Từ Hiếu, thành phố Huế, ở tuổi 95, trang nhà của Làng Mai thông báo.
VOA cũng đã được các đệ tử thân cận của Thiền sư xác nhận về sự ra đi này. Thông báo của Làng Mai cho biết ông ra đi 'một cách yên bình'.
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh là người truyền bá và phát triển Phật giáo ở phương Tây hiện đại, người chủ trương ‘Phật giáo dấn thân,’ áp dụng Phật pháp giải quyết những vấn đề trong cuộc sống cá nhân và xã hội đương đại.
Sức khỏe thiền sư đã yếu dần sau lần đột quỵ hồi năm 2014 khiến ông phải ngồi xe lăn cho đến nay. Từ năm 2018, ông đã về hẳn ở Việt Nam để tịnh dưỡng ở 'chốn Tổ' là Tổ đình Từ Hiếu, nơi năm xưa ông đã xuất gia.
Xuất gia và ra đi
Sinh ngày 11/10 năm 1926 tại Huế với tục danh Nguyễn Xuân Bảo, Thiền sư Thích Nhất Hạnh xuất gia làm sa di từ năm 16 tuổi tại Tổ đình Từ Hiếu, thành phố Huế, thọ giới Thiền sư Thanh Quý Chân Thật theo Thiền tông thuộc Phật giáo Đại thừa.
Trong giai đoạn đầu tu tập, Thiền sư từng đảm nhiệm chức trách mà Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (là tổ chức sau này bị Chính phủ Hà Nội dẹp bỏ) giao cho, như chủ biên tạp chí Phật giáo Việt Nam năm 1956. Ông cũng sáng lập Nhà xuất bản Lá bối, tham gia sáng lập Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn. Đến những năm 1960, ông sáng lập Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội (SYSS), một tổ chức thiện nguyện Phật giáo gồm khoảng 10.000 tình nguyện viên đi về các thôn xóm để dựng trường, xây trạm xá và tái thiết các làng xã bị chiến tranh tàn phá.
Từ năm 1961, ông bắt đầu ra nước ngoài, nghiên cứu và giảng dạy Phật học. Để rồi ông dần dành toàn bộ thời gian sống và phụng sự ở hải ngoại sau khi không thể về Việt Nam được nữa trong gần 40 năm sau đó.
Năm 1961, tại Hoa Kỳ, ông giảng dạy môn Tôn giáo Đối chiếu tại Đại học Princeton, và năm sau ông đến Đại học Columbia giảng dạy Phật học. Đến năm 1963, ông quay lại Việt Nam cùng tham gia các nỗ lực vận động hòa bình bất bạo động cùng các bạn đồng tu của mình.
Năm 1966, giữa lúc cuộc chiến Việt Nam diễn ra ngày càng khốc liệt, ông đến Mỹ và châu Âu kêu gọi hòa bình và chấm dứt thù hận ở Việt Nam. Ông đi nhiều nơi, truyền bá thông điệp về hòa bình và tình thương, vận động các nhà lãnh đạo phương Tây chấm dứt chiến tranh Việt Nam và dẫn đầu phái đoàn Phật giáo đến Đàm phán Hòa bình ở Paris năm 1969.
Trong lần đến Mỹ năm 1966, Thiền sư Thích Nhất Hạnh lần đầu tiên gặp gỡ nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng Martin Luther King Jr. để thuyết phục ông lên tiếng chống chiến tranh Việt Nam. Sau đó, chính Martin Luther King Jr đề cử thiền sư cho Giải Nobel Hòa bình 1967. Năm đó, Ủy ban Nobel không chọn giải Nobel Hòa bình.
Do cả hai chính phủ Bắc Việt và Nam Việt đều không cho phép ông trở lại Việt Nam, ông bắt đầu cuộc sống lưu vong trong vòng 39 năm cho đến năm 2005 mới trở lại Việt Nam lần đầu tiên.
Làng Mai
Bên cạnh các hoạt động phản chiến, ở hải ngoại, ông tiếp tục dạy học, thuyết giảng và viết sách về ‘chánh niệm’, ‘sự tỉnh thức’ và ‘sống trong an lạc’ để truyền bá Phật pháp đến thế giới phương Tây.
Đầu những năm 1970, ông trở thành giảng viên và nhà nghiên cứu Phật giáo tại Đại học Sorbornne, Paris.
Năm 1982, Thiền sư thành lập Đạo Tràng Mai Thôn, tức Làng Mai, bao gồm một hệ thống các tu viện tại vùng Dordogne tây nam nước Pháp.
Theo trang nhà của Làng Mai thì từ một thôn trang nhỏ lúc đầu, Làng Mai đã trở thành ‘tu viện Phật giáo lớn nhất và năng động nhất ở phương Tây’ với ‘trên hơn 200 vị xuất sĩ và gần 8.000 cư sĩ từ khắp nơi trên thế giới đến tu tập mỗi năm để học về cách sống trong chánh niệm’.
Tại Làng Mai, Thiền sư Thích Nhất Hạnh áp dụng trở lại những phương pháp thực tập có từ thời Phật giáo nguyên thủy và có giản lược và điều chỉnh để dễ dàng áp dụng cho những khó khăn và thách thức của cuộc sống hiện đại. Đó là buông xả hoàn toàn, ngưng nghỉ, mỉm cười, hít thở trong chánh niệm, ăn cơm chánh niệm, thiền hành, thiền tọa…
Đạo Tràng Mai Thôn ở Pháp (hiện nay có ba tu viện là Từ Nghiêm, Pháp Vân và Cam Lộ cùng một thiền đường) sau đó được mở rộng thêm các trung tâm Làng Mai khác như ở Mỹ, Đức, Việt Nam, Úc, Hong Kong và Thái Lan. Ở Việt Nam, Làng Mai có hai cơ sở là Tổ đình Từ Hiếu ở Huế và Thiền viện Bát Nhã ở Bảo Lộc, Lâm Đồng. Ở Mỹ, Làng Mai có bốn tu viện là Lộc Uyển (California), Bích Nham (New York), Mộc Lan (Mississipi) và Đạo tràng Thanh Sơn (Vermont). Các tu viện này là nơi tu tập của cả ngàn xuất sĩ thuộc nhiều quốc gia trên thế giới và đều đặn tổ chức các khóa tu cho các cư sĩ đủ mọi thành phần khác nhau như gia đình, thiếu niên, cựu chiến binh, nghị sĩ, nhân viên chấp pháp, giới showbiz và người da màu.
Ông cũng đề ra ‘Năm phép thực tập chánh niệm’ kêu gọi mọi người thực tập giảm thiểu khổ đau cho thế giới con người và vạn vật hữu tình trên trái đất.
‘An lạc từng bước chân’
Ông được kính trọng trên khắp thế giới do những bài giảng có sức mạnh và truyền cảm hứng về chánh niệm và hòa bình. Thông điệp chính của ông là thông qua chánh niệm, con người có thể học cách sống an lạc trong hiện tại và nhờ đó xây dựng sự bình an trong bản thân mỗi người và xây dựng hòa bình cho thế giới.
Ông xuất bản hơn 100 tựa sách về thiền và sự tỉnh thức, trong đó có những tác phẩm nổi tiếng như Phép lạ của Sự tỉnh thức (Miracle of Mindfulness), Việt Nam – Hoa sen trong Biển Lửa (Vietnam: Lotus in a Sea of Fire), Đường Xưa Mây Trắng (Old Path White Clouds), An lạc Từng bước chân (Peace is Every Step)… Chỉ tính riêng ở Mỹ, tác phẩm của ông đã bán ra được hơn ba triệu bản.
Ông cũng từng được mời diễn thuyết tại trụ sở UNESCO Paris, kêu gọi thực hiện những bước đi cụ thể đảo ngược bạo lực, chiến tranh và biến đổi khí hậu. Năm 2013, ông dẫn đầu các sự kiện chánh niệm thu hút sự quan tâm lớn ở trụ sở Google, Ngân hàng Thế giới và Trường Y thuộc Đại học Harvard.
Thông qua các hoạt động giảng dạy và truyền bá đạo Phật, Thiền sư Thích Nhất Hạnh có hàng chục ngàn đệ tử khắp thế giới, trong đó có nhiều nhân vật tên tuổi trong chính giới, doanh gia và giới giải trí.
Ông được quốc tế gọi bằng nhiều danh xưng như ‘Sứ giả của hòa bình và bất bạo động’, ‘Người cha của Chánh niệm’, ‘một Đạt Lai Lạt Ma khác’ hay ‘Vị thiền sư có thể kéo người đến đầy sân vận động’.
Ông được cho là thông thạo các thứ tiếng Anh, Pháp, Hoa, Nhật, Phạn (Sanskrit) và Pali.
Trở về ‘lần cuối cùng’
Thiền sư Nhất Hạnh sống lưu vong trong 39 năm cho đến lần về thăm lại Việt Nam đầu tiên năm 2005 sau những cuộc thương thảo kéo dài với chính phủ Hà Nội.
Năm 2007, ông về nước lần thứ hai, tổ chức ‘Đại trai đàn bình đẳng chẩn tế’ ở cả ba miền Việt Nam, cầu siêu cho đồng bào tử nạn và chiến sĩ trận vong của cả hai miền Nam – Bắc.
Năm 2008, ông về Việt Nam lần thứ ba, làm diễn giả chính cho Đại lễ Vesak của Liên Hiệp Quốc.
Năm 2017, từ Thái Lan ông trở về Việt Nam lần thứ tư để tĩnh dưỡng sau khi bị đột quỵ do xuất huyết não năm 2014.
Ngày 26 tháng 10, 2018, ông trở về Việt Nam ‘lần cuối cùng,’ để tĩnh dưỡng cho đến ngày ‘nhập diệt ở chốn tổ’ là Tổ đình Từ Hiếu ở Huế.