Trong bài viết “Vì sao Mỹ phải lãnh đạo nữa” (Why America Must Lead Again) trên tạp chí Foreign Affairs vào tháng Ba/Tư năm 2020, ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ Joseph R. Biden lúc đó biện luận rằng “Chiến thắng của dân chủ và chủ nghĩa cấp tiến trước chủ nghĩa phát xít và chế độ chuyên quyền đã tạo ra thế giới tự do. Nhưng cuộc đấu này không chỉ xác định quá khứ của chúng ta. Nó cũng sẽ xác định tương lai của chúng ta.”
Cũng trong bài này, Biden nhận định nhiều thử thách đối diện nước Mỹ, mà Trung Quốc là một thử thách đặc biệt. Biden cho rằng Trung Quốc đang chơi trò chơi lâu dài bằng cách mở rộng tầm hoạt động toàn cầu, thúc đẩy mô hình chính trị của riêng mình và đầu tư vào các công nghệ của tương lai. Biden cũng ghi nhận sự xâm phạm nhân quyền trầm trọng của Bắc Kinh, và để đối phó với những thử thách từ nước này, Biden biện luận cần “xây dựng một mặt trận thống nhất gồm các đồng minh và đối tác của Hoa Kỳ để đối đầu với các hành vi lạm dụng và vi phạm nhân quyền của Trung Quốc…” Mỹ hiện nay chiếm một phần tư GDP toàn cầu, nhưng khi có các nền dân chủ khác liên minh, sức mạnh vật chất đó tăng gấp đôi, và như thế Bắc Kinh không thể coi thường hay làm ngơ một nửa nền kinh tế toàn cầu.
Với lập luận trên, và với nhiều lý do và thử thách khác, Biden hứa hẹn sẽ tổ chức Hội nghị Dân chủ vào năm đầu trong nhiệm kỳ tổng thống của ông nếu đắc cử. Chủ trương của Hội nghị Dân chủ là để làm mới lại tinh thần và mục đích chung của các quốc gia tự do, tập hợp các nền dân chủ trên thế giới lại với nhau để củng cố các thể chế dân chủ, nghiêm chỉnh đối đầu với các quốc gia đang tụt lùi và xây dựng một chương trình nghị sự chung. Ba chủ đề chính cho hội nghị này là chống tham nhũng, chống lại chủ nghĩa độc tài, và thúc đẩy nhân quyền ở các quốc gia ở khắp nơi.
Trang mạng của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về chương trình này cũng cho biết rằng Hội nghị đầu tiên vào ngày 9 và 10 tháng 12 này là nhằm tham khảo ý kiến của các chuyên gia từ chính phủ, các tổ chức đa quốc, các tổ chức từ thiện, xã hội dân sự và khu vực tư nhân để thu hút các ý tưởng táo bạo, khả thi xoay quanh ba chủ đề chính nêu trên.
Tổng thống Biden cũng mong muốn đề cao trật tự quốc tế dựa trên quy tắc hẳn hoi, đặc biệt trên vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương. Đa số các quốc gia, dù dân chủ hay phi dân chủ, đều được hưởng lợi trên trật tự này. Ngoại lệ có thể là Trung Quốc, chủ yếu muốn dùng sức mạnh để uy hiếp nước yếu. Đó cũng là lý do mà Biden muốn đẩy mạnh chủ trương này trong Hội nghị Dân chủ và các diễn dàn khác.
Trong những tuần qua, cơ quan truyền thông quốc tế khắp nơi đã đưa tin về Hội nghị Dân chủ 2021 với lắm vấn đề và tranh cãi. Bởi trên thế giới hiện nay có ít nhất ba loại thể chế chính trị khác nhau: dân chủ, độc tài và còn lại là ở giữa. Không hẳn độc tài và cũng không phải dân chủ: một phần dân chủ/tự do. Mời, hay không mời, một quốc gia nào đó tham dự hội nghị này cũng có phần nào rủi ro biến họ thành thân thiện hơn, hay giận dữ hơn. Đâu là các điều kiện chuẩn mực nhất để lấy làm lằn ranh vạch ra bên này là nằm trong danh sách nên được mời, và bên kia là không nên mời? Đối với các quốc gia rõ ràng dân chủ hay rõ ràng độc tài thì rất dễ, nhưng với những nước giữa, không trắng và cũng chẳng đen, thì vừa khó vừa tế nhị. Loại trừ ra khỏi danh sách thì rất dễ, nhưng làm như thế đạt được gì? Hay là bao gồm họ trong danh sách mời để qua hội nghị khuyến khích các nước này cải tổ nền dân chủ để ngày một bền vững hơn?
Tất cả đều là những câu hỏi và những vấn đề mà khi đi vào thực tế để đánh giá và quyết định, nó có thể tế nhị và phức tạp.
Bản đánh giá của tổ chức Freedom House về Chỉ số Tự do 2021, thường phân loại các quốc gia là tự do, phần nào tự do, và không tự do, là cơ sở nền tảng để Bộ Ngoại giao của chính quyền Mỹ lấy quyết định. Nhưng vẫn có những trường hợp ngoại lệ. Theo Freedom House thì năm 2020, có 82 quốc gia được xem là tự do, 59 là bán tự do, và 54 là không tự do. So với năm 2005 thì số nước tự do đã giảm đi đến 7.
Theo quan sát của Shannon Tiezzi đăng trên The Diplomat, những nước được mời tham dự có chỉ số tự do trung bình là 78.5 điểm, so với các nước không được mời có chỉ số 32.8 điểm. Nhưng vẫn có vài ngoại lệ: Phần Lan, Na Uy, Thụy Điển có chỉ số 100, trong khi Cộng hòa Dân chủ Congo thì chỉ có 20 điểm, nhưng lại nằm trong danh sách được mời. Những nước khác như Andorra (93), Tunisia (71), and Bolivia (66) thì lại không được mời. Trong 11 quốc gia thuộc Hiệp hội Đông Nam Á ASEAN thì chỉ có 4 nước Nam Dương, Mã Lai, Phi Luật Tân và Timor-Leste được mời. Singapore dù chỉ có chỉ số 48, theo Freedom House, vì các giới hạn của đảng cầm quyền đặt lên phía đối lập, các luật lệ bầu cử không công bằng và quyền tự do ngôn luận/bày tỏ bị kiềm chế, nhưng là đồng minh lâu dài của Mỹ nên cũng được mời.
Quốc gia xứng đáng nhất được tham dự chính thức hội nghị dân chủ này là Đài Loan, mặc dầu Mỹ chưa công nhận tính cách độc lập chủ quyền của nước này, và mặc dầu lời mời của Mỹ đã làm cho Bắc Kinh vô cùng phẫn nộ. Việc Mỹ mời Đài Loan tham dự như một nhà nước độc lập đã làm cho Trung Quốc giận dữ. Tòa Đại sứ Trung Quốc tại Washington DC đã phản đối lời mời của Mỹ dành cho Đài Loan vì cho rằng Đài Loan không có vị trí gì trên luật quốc tế ngoại trừ thuộc về Trung Quốc, phát ngôn nhân Liu Pengyu của họ nói vậy. Tuy nhiên theo các chuyên gia về Đài Loan thì đây là cơ hội quý hiếm, quan trọng, để Đài Loan tương tác với các quốc gia khác một cách bình đẳng và cảm thấy được tôn trọng trên trường quốc tế, đồng thời nâng cao uy tín về nền dân chủ của mình.
Trong suốt mấy tuần qua, các cơ quan truyền thông ở khắp nơi trên thế giới, như tại Thái Lan (30), Bangladesh (39), Sri Lanka (56), Ấn Độ (67), Pakistan (37) v.v… đã đặt vấn đề tại sao các nước này được mời hay không được mời. Tại những nước không được mời, như Thái Lan, Bangladesh và Sri Lanka, phe đối lập và giới truyền thông nhân cơ hội này phê bình chính quyền về sự suy thoái dân chủ, nhất là quyền tự do ngôn luận và bày tỏ. Họ cũng đặt câu hỏi vì sao Pakistan, với chỉ số tự do thấp hơn Bangladesh hay Sri Lanka, mà lại được mời tham dự?
Steven Feldstein thuộc Carnegie’s Democracy, Conflict, and Governance Program cho rằng tiến trình duyệt xét ai tham dự hay không là khá phức tạp. Ba yếu tố quan trọng là: một, tính linh động trong vùng có một vai trò quan trọng, như trường hợp mời Iraq; hai, lợi ích chiến lược rộng lớn hơn của Hoa Kỳ cũng quan trọng, như trường hợp mời Pakistan, Phi Luật Tân và Ukraine; ba, có những trường hợp cần áp dụng trắc nghiệm là nếu không mời thì không hại gì (do-no-harm test), như trường không mời Thổ Nhỉ Kỳ hay Hungary.
Nói cho cùng, mọi quyết định vẽ lằn ranh, chia chiến tuyến, phân định/cấp đều có giới hạn và hệ quả của nó. Tổng thống Biden và Nhà Trắng hiểu rõ chuyện này. Nhưng không còn cách nào khác hơn. Sau Hội nghị Dân chủ, chính quyền Biden sẽ tìm cách trấn an, và chữa lửa, đối với những quốc gia không được mời tham dự hội nghị. Các tòa đại sứ của Mỹ ở khắp nơi đã cẩn trọng làm việc để bảo đảm mối quan hệ giữa Mỹ và các nước này không bị sứt mẻ. Điều này cho thấy Mỹ cần đồng minh và chủ trương bảo vệ và xây dựng thêm đồng minh ngày một chặt chẽ hơn để trở thành đối tác về kinh tế/thương mại, quốc phòng, môi trường và nhiều lĩnh vực khác. Ngược lại, tuy một số quốc gia không muốn phải công khai chọn giữa Mỹ và Trung Quốc, nhưng họ luôn hiểu chơi với Mỹ dễ hơn và có lợi hơn, và không bị bắt nạt hay hiếp đáp như với Trung Quốc. Chẳng hạn, sau khi Thái Lan không được mời tham dự hội nghị, Thủ tướng Thái Prayut Chan-o-cha tuyên bố rằng Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken sẽ viếng thăm Thái Lan trong thời gian ngắn tới. Prayut cho biết Washington vẫn coi Thái Lan là một đối tác chiến lược quan trọng trong ASEAN.
Riêng về trường hợp Việt Nam, với chỉ số tự do rất thấp 19, không được mời tham dự Hội nghị Dân chủ, thì điều này không làm ai ngạc nhiên cả.
Tôi có theo dõi những chia sẻ của tiến sĩ Lê Hồng Hiệp và luật sư Trịnh Hữu Long bàn về đề tài này trên VOA.
Tuy chia sẻ về những quan tâm của anh Long về dân chủ, nhân quyền, tôi đồng ý với các nhận định của anh Hiệp hơn.
Theo tôi, chiến lược lớn và dài của chính quyền Biden là củng cố, xây dựng và thúc đẩy xu hướng dân chủ và nhân quyền trong thời gian tới, ít nhất là trong nhiệm kỳ còn lại của Biden. Nhưng muốn mục đích này thành công, nó cần nhiều nhiệm kỳ và cần sự hỗ trợ của Dân chủ lẫn Cộng hòa, với chủ trương nhất quán và xuyên suốt. Mục tiêu chiến lược là phát huy quyền lực mềm, xây dựng các giá trị chung, để qua đó có nền tảng hợp tác lâu dài. Liên minh dân chủ càng rộng càng mạnh thì ảnh hưởng của nó sẽ càng lớn, và tự nó có khả năng đối đầu không chỉ với Trung Quốc, Nga v.v… mà còn đối với các chính thể độc tài khác hiện nay cũng như đối với các nguy cơ suy thoái của các nước dân chủ còn yếu, hay bán dân chủ.
Ngoài liên minh dân chủ, một số quốc gia độc tài hay bán dân chủ không nhất thiết là đối thủ nguy hiểm đối với quyền lợi của Mỹ. Tất nhiên đối với Mỹ, dân chủ vẫn là tốt hơn, dễ bang giao, hợp tác, tin cậy hơn. Nhưng thực tế thì Mỹ cũng không còn cách nào khác ngoài tiếp cận với các thể chế độc tài hay bán dân chủ vì tương quan quyền lợi. Miễn sao họ không phải là mối đe dọa hay coi Mỹ như thù nghịch. Đối với các nước nằm trong trường hợp này thì Mỹ cũng không có lý do gì để tạo sức ép thay đổi lên thể chế chính trị tại đó.
Như trường hợp Việt Nam, Thái Lan và Bangladesh, chẳng hạn.
Mỹ không cần bỏ nhiều công sức đối với Thái Lan và Bangladesh cho dầu hai nước này chưa hoàn toàn tự do, dân chủ. Tuy nhiên các đảng chính trị và truyền thông tại đây phần nào hoạt động độc lập. Trung Quốc luôn muốn lôi kéo hai nước này, cũng như nhiều nước khác trong vùng, nhưng giới chính trị và truyền thông trong nước không ủng hộ chủ trương quá gần với Trung Quốc. Cho nên Mỹ cũng không phải quá quan tâm. Nếu so với Campuchia, Lào hay Miến Điện hiện nay, quá gần với Trung Quốc, thì Mỹ có chính sách tiếp cận khác.
Trong khi đó, Đảng Cộng Sản Việt Nam kiểm soát toàn bộ lĩnh vực chính trị, truyền thông. Gần như không có tiếng nói đối lập nào đáng kể, bởi phần lớn đều bị giam lỏng hay bị cầm tù hết rồi. Nhưng vì Việt Nam chiếm vị trí vô cùng quan trọng, lại là nước quá gần Trung Quốc về thể chế chính trị, nên Mỹ đành chấp nhận tiến trình tiệm tiến trong cách tiếp cận đối với Việt Nam. Mỹ cũng thừa biết tuy Hà Nội và Bắc Kinh có tư tưởng chính trị giống nhau, họ cũng không ưa gì nhau và không tin tưởng nhau. Đặc biệt là vì Trung Quốc tham vọng chiếm trọn chủ quyền trên toàn bộ Biển Đông, với những hành vi lấn át trên biển, nhất là từ năm 2012 khi Tập Cận Bình lên nắm quyền. Giới lãnh đạo chính trị Mỹ hiểu được bản chất của Bắc Kinh và Hà Nội, do đó họ cũng khôn khéo để ít nhất không đẩy Hà Nội gần hơn về phía Bắc Kinh.
Mỹ cũng không ảo tưởng gì về khả năng Hà Nội trở thành một nhà nước dân chủ, nhưng chắc chắn họ cũng nuôi hy vọng rằng các thế hệ trẻ Việt Nam trong tương lai sẽ quyết định vận mạng đất nước mình. Nó cũng sẽ đến, nhưng là một tiến trình dài. Một khi đã có tư tưởng và giá trị nền tảng thì tiến trình sẽ nhanh hơn nhiều.
Câu nói của Tổng thống Biden trên trang mạng Bộ Ngoại giao Mỹ khá thiết thực: “Dân chủ không xảy ra một cách ngẫu nhiên. Chúng ta phải bảo vệ nó, chiến đấu cho nó, củng cố nó, làm mới nó.”
Dân chủ, nói cho cùng, là một văn hóa định hình lối sống của những người là thành viên trong cùng một cộng đồng, quốc gia có chung lãnh thổ/hải đó. Nếu chúng ta coi nhau là bình đẳng, đối xử nhau văn minh dựa trên các giá trị chung và dựa trên nền tảng pháp lý công minh, thì dân chủ rồi cũng sẽ đến.
Hội nghị Dân chủ 2021 có thể sẽ sự kiện quan trọng để thúc đẩy tiến trình dân chủ toàn cầu, nhưng nó sẽ không tạo thay đổi gì đối với Việt Nam. Khi nào đại đa số người Việt Nam mong muốn, cam kết và nỗ lực có dân chủ, thì đó mới là yếu tố quyết định.