Bất thường trong việc xác định tội phạm không chỉ xảy ra giữa bà Đỗ Thị Nhàn - Cục trưởng Cục Thanh tra Giám sát ngân hàng (TTGSNH) và ông Nguyễn Văn Hưng - (Phó Chánh thanh tra của Cơ quan TTGSNH.
Tuy hành vi của nhiều viên chức cao cấp trong NHNN y hệt như bà Nhàn và gây ra hậu quả không khác gì hành vi của bà Nhàn nhưng họ cũng chỉ được xác định là đã phạm tội “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” như ông Hưng.
Tại trang 242 và 243 KLĐT, công an nhận định như thế này về hành vi phạm tội của các ông Nguyễn Văn Dũng (Phó Giám đốc Chi nhánh TP.HCM của NHNN), Võ Văn Thuần (Phó Chánh Thanh tra phụ trách TTGSNH Chi nhánh TP.HCM của NHNN), Phan Tấn Trung (Phó Chánh Thanh tra phụ trách TTGSNH Chi nhánh TP.HCM của NHNN), Nguyễn Tín (Phó phòng Thanh tra hành chính, Giải quyết khiếu nại, tố cáo và Phòng chống tham nhũng, Cục TTGSNH TP.HCM thuộc Cơ quan TTGSNH NHNN) và bà Nguyễn Thị Phi Loan (Phó Chánh Thanh tra phụ trách TTGSNH Chi nhánh TP.HCM của NHNN): “Nguyễn Văn Dũng, Võ Văn Thuần, Phan Tấn Trung, Nguyễn Thị Phi Loan, Nguyễn Tín với vai trò là lãnh đạo Cục 2, NHNN Chi nhánh TP.HCM, TTGS NH Chi nhánh TP.HCM và Tổ trưởng Tổ Giam sát đã có các hành vi: Ngăn chặn, cản trở việc báo cáo hoặc báo cáo không trung thực các hành vi sai phạm và thực trạng tài chính rất xấu của Ngân hàng SCB lên NHNN và Cơ quan TTGS NH; Không kiến nghị NHNN đưa SCB vào diện kiểm soát toàn diện; Không kiến nghị Cơ quan TTGS NHNN; Không kiến nghị Cơ quan TTGS NHNN thanh tra pháp nhân SCB để kịp thời xử lý các sai phạm; Thu hẹp phạm vi thanh tra không đúng với đề xuất của Tổ giám sát, cố ý làm trái với ý kiến chỉ đạo của NHNN và Cơ quan TTGS NHNN. Đồng thời quá trình thực hiện, chỉ đạo công tác thanh tra, giám sát đối với Ngân hàng SCB, các cá nhân nêu trên đã nhận của Ngân hàng SCB từ 470 triệu đến 1,8 tỷ đồng”.
Đáng nói là dù cho rằng: “Hậu quả của các hành vi sai phạm và nhận tiền của các cá nhân tại Cục 2, NHNN Chi nhánh TP.HCM và Tổ giám sát đã để cho nhóm Trương Mỹ Lan và SCB thực hiện hoạt động cho vay lũy tiến từng năm để Trương Mỹ Lan rút tiền sử dụng cá nhân/trả nợ cho các khoản vay trước đó nhằm che giấu thực trạng hoạt động tín dụng xấu của SCB, thiệt hại đến nay với số tiền đặc biệt lớn (dư nợ của các tổ chức, cá nhân thuộc nhóm Trương Mỹ Lan tính đến ngày 17/10/2022 là 677.286 tỉ đồng)” nhưng giống như ông Hưng, ông Dũng, ông Thuần, ông Trung, bà Loan, ông Tín không bị công an, kiểm sát xác định là “nhận hối lộ” giống như bà Nhàn! Liệu khi xét xử, tòa án có “linh hoạt” khi áp dụng luật hình sự như công an, kiểm sát?
Tương tự, có tới 25 cá nhân là viên chức nhận tiền, quà của SCB trong khi thi hành công vụ để làm sai chức trách hoặc bỏ qua không làm những chuyện phải làm, song có bảy người (ba của KTNN, ba của Cơ quan TTGSNH thuộc NHNN, một của TTCP) được công an bỏ qua “không xem xét trách nhiệm hình sự”. Trong bảy người, có ba nhận 100 triệu đồng, ba nhận 9.000 USD và 100 triệu đồng, một nhận 6.000 USD và 50 triệu đồng và tại trang 227 của KLĐT, công an giải thích, sở dĩ các ông bà Lại Văn Bách, Bùi Vũ Hồng Trang, Phạm Thị Thùy Linh, Phạm Quốc Thịnh, Phạm Hồng Linh, Nguyễn Lan Hương, Nguyễn Hà Linh được tha vì “không giữ chức vụ, vai trò thứ yếu, bị động, phụ thuộc theo ý kiến chỉ đạo, áp đặt của Đỗ Thị Nhàn Trưởng đoàn trong quá trình thanh tra. Quá trình làm việc với Cơ quan điểu tra đã thành khẩn, chủ động khai báo về sai phạm và việc nhận tiền trong quá trình thanh tra, đã nộp khắc phục toàn bộ số tiền đã nhận từ SCB, hợp tác tích cực giúp cơ quan điều tra nhanh chóng làm rõ vụ án”.
Thế thì tại sao trong chín trang từ 217 đến 226 tại KLĐT, mô tả về hành vi phạm tội và nhận định về hậu quả mà các thành viên Đoàn Thanh tra SCB gây ra, lại có những người cũng“không giữ chức vụ, vai trò thứ yếu, bị động, phụ thuộc theo ý kiến chỉ đạo, áp đặt của Trưởng đoàn trong quá trình thanh tra” như ông Nguyễn Duy Phương - chỉ nhận khoảng 45 triệu đồng và cũng đã chủ động nộp lại tiền, cũng được công an ghi nhận là “khai báo thành khẩn, thừa nhận hành vi phạm tội” (trang 225 và trang 226) nhưng vẫn bị công an xem là có tội và bị đề nghị truy tố về tội “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”? Đó là chưa kể nhiều thành viên khác trong Đoàn Thanh tra SCB, tuy có chức vụ như ông Vương Đỗ Anh Tuấn (Tổ trưởng Tổ 3 của đợt thanh tra đầu, Tổ trưởng Tổ 2 của đợt thanh tra thứ hai) được ghi nhận “đã chủ động khai báo thành khẩn” về việc nhận 40.000 Mỹ kim và hai cái áo, đồng thời đã “chủ động, phối hợp với gia đình, nộp lại ngay toàn bộ số tiền” (trang 221), hay ông Trần Văn Tuấn (Tổ trưởng Tổ 4 của đợt thanh tra đầu, thành viên Tổ 1 của đợt thanh tra thứ hai) cũng chỉ nhận 6.000 Mỹ kim và 40 triệu đồng – khoản tiền đã nhận chỉ bằng hoặc thấp hơn một số người được cho là “không giữ chức vụ, vai trò thứ yếu, bị động” và dù cũng được CQĐT ghi nhận “khai báo thành khẩn, thừa nhận hành vi phạm tội, đã nộp toàn bộ số tiền vụ lợi” (trang 222) nhưng cả hai không được miễn xem xét trách nhiệm hình sự?... Khi xét xử, liệu tòa án có “nhất trí” với sự bất nhất hết sức khó hiểu này?
***
Dư luận vừa được hâm nóng sau khi công an công bố KLĐT vụ ông Đỗ Hữu Ca – Thiếu tướng cựu Giám đốc Công an thành phố Hải Phòng – nhận 35 tỉ đồng để “chạy” cho vợ chồng ông Trương Xuân Đước thoát nạn do “mua bán trái phép hóa đơn” (1). Chuyện công an vừa điều tra, vừa nhận tiền để làm án theo... yêu cầu đã trở thành bình thường tại Việt Nam. Không chỉ có những sĩ quan công an về hưu đảm nhận vai trò vận động viên chạy án mà các sĩ quan công an đương nhiệm cũng vậy. Chẳng hạn trong đại án “giải cứu” có Thiếu tướng Nguyễn Anh Tuấn – Phó Giám đốc Công an Hà Nội nhận 800.000 Mỹ kim, Điều tra viên cao cấp Hoàng Văn Hưng nhận 18,8 tỉ để sắp đặt án (2). KLĐT, Cáo trạng của “vụ án xảy ra tại Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, Ngân hàng SCB và các đơn vị, tổ chức liên quan” góp phần giải thích lý so - chính vì được phép “linh hoạt” khi vận dụng luật hình sự nên sự “linh hoạt” chẳng ai thắc mắc này đã thai nghén và nuôi dưỡng chạy án, biến chạy án thành phong trào chưa biết đến lúc nào mới xẹp!
Chú thích