Lãnh đạo mang tính quyết định, trong mọi lĩnh vực, nhất là trong môi trường lắm cạnh tranh, nhiều rủi ro và nghi kỵ chia rẽ. Trong tình huống này, ngoài thông tin, kiến thức và kinh nghiệm, những người lãnh đạo cần rất nhiều khả năng và kỹ năng khác nhau. Theo các nhà nghiên cứu về các lãnh đạo xưa nay trong nhiều thập niên qua, các lãnh đạo thành công và xuất sắc đều có điểm chung: trí thông minh cảm xúc.
Lịch sử nhân loại có nhiều lãnh đạo xuất chúng, và họ đã định hình, thay đổi nền lịch sử quốc gia và, ở mức độ nào đó, quốc tế. Abraham Lincoln là một trong những lãnh đạo sáng chói đó, chiếu sáng cho đến tận ngày nay. Thời Lincoln, người ta ghi nhận ông tài giỏi, nhưng chữ “thông minh cảm xúc” không phải là ngữ vựng thời đó.
Nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp của Lincoln trong nhiều thập niên qua, và cũng như các kiến thức và khám phá mới về ngành lãnh đạo học, sử gia hàng đầu về tổng thống Hoa Kỳ tiến sĩ Doris Kearns Goodwin đã trình bày nhiều điều thú vị về Abraham Lincoln, cũng như ba tổng thống Hoa Kỳ khác là Theodore Roosevelt, Franklin Roosevelt, và Lyndon Johnson trong tác phẩm “Tài lãnh đạo: Trong thời điểm hỗn loạn” (Leadership: In Turbulent Times).
Tiến sĩ Goodwin tóm tắt các đặc điểm trí thông minh cảm xúc của Lincoln như sau: sự đồng cảm, khiêm nhường, nhất quán, tự nhận thức, kỹ luật cá nhân và tinh thần rộng lượng/cao thượng của Lincoln. Cụ thể hơn, Lincoln hiểu rõ nhu cầu cảm xúc của mình và người khác; biết cách tự chủ cảm xúc và luôn chủ động để thích ứng; hiểu rõ nhu cầu của xã hội và có tinh thần phục vụ và đồng cảm cao; và biết quản lý quan hệ một cách tốt đẹp với những người chung quanh, giải quyết xung đột, làm việc đồng đội và phát triển người khác v.v…
Biết người biết ta để quản lý mối quan hệ tốt đẹp
Lincoln hiểu rõ rằng là người, dù ở bất cứ địa vị này, nhu cầu cảm xúc của mọi thành viên trong nội các của ông đều quan trọng. Do đó, ngay từ ban đầu, Lincoln nhìn thấy được tài năng của Seward, và hiểu được cảm giác bị tổn thương sau khi Lincoln được chọn làm ứng cử viên tổng thống, do đó Lincoln luôn đối xử với Seward một cách kính trọng [*]. Ông thường đi qua bên kia đường, viếng thăm Seward tại nhà, và dành nhiều thời gian để hàn huyên, kể chuyện, cười đùa với nhau những đêm dài. Tình bạn giữa hai người từ đó về sau thật bền vững. Đối với Stanton người chịu trách nhiệm về chiến tranh, Lincoln luôn hiểu trách nhiệm vô cùng nặng nề, và ông sẵn sàng làm bất cứ điều gì để giảm bớt gánh nặng và để hỗ trợ tinh thần của Stanton.
Tuy nhiên, Lincoln cũng lo ngại rằng sự thân thiện của ông với Seward và Stanton làm cho người khác ghen tị, hay nghĩ là mình có thiên vị, do đó Lincoln cũng tìm thời gian cho mọi thành viên khác. Lincoln hiểu rõ ai cũng muốn được một lời khen, và ai cũng muốn được khen những việc mình làm. Vì thế nên ông thường viết thư cho các thành viên nội các và bày tỏ lòng tri ân/biết ơn đối với các việc làm của họ.
Tuy rất tình cảm và mềm mỏng, nhưng khi cần cứng rắn, Lincoln cũng rất dứt khoát. Khi quyết định cách chức một người do Chase đề cử vì thấy bất xứng, Lincoln hiểu Chase có thể bực tức về quyết định của mình. Do đó Lincoln mời Chase đến văn phòng, bỏ tay lên vai của Chase một cách thân thiện, và trình bày nguyên do tại sao quyết định này cần thiết. Chase cho biết tổng thống Lincoln luôn đối xử ông tử tế, thân thiện, công bằng, và mục tiêu lúc nào cũng liêm chính, và cho nên ông không bao giờ có sự nghi ngờ nào cả.
Lincoln không để những lấn cấn quá khứ trở thành độc hại, và biết chuyển hóa các thù hận cá nhân thành quan hệ tích cực. Leonard Swett, người bạn của Lincoln, nhận xét rằng một người có chơi xấu, có đối xử tồi tệ với Lincoln đi chăng nữa, nhưng lại là người xứng đáng nhất để nhận lãnh một vai trò nào đó, thì Lincoln sẽ giao nhiệm vụ cho người đó như chính người thân của ông. Được hướng dẫn bởi “nguyên tắc tha thứ”, Lincoln nhấn mạnh rằng ông không quan tâm nếu một người nào đó đã làm sai trong quá khứ, điều quan trọng là người đó từ đó về sau không làm sai nữa.
Nguyên tắc này Lincoln đã áp dụng với chính Edwin Stanton. Stanton đã từng phê bình Lincoln trước đây khi Lincoln chỉ mới là luật sư được biết đến trong tiểu bang Illinois. Stanton nhìn Lincoln và sau đó nói với George Harding, đồng nghiệp của ông: “Tại sao ông lại mang con… khỉ dài thòn lòn này đến đây làm chi vậy. Hắn ta chẳng biết gì cả và không thể làm gì tốt cho ông được”. Với suy nghĩ này, Stanton gạt Lincoln sang một bên, không thèm xem bản đúc kết một vụ kiện mà Lincoln đã bỏ bao công sức để soạn, không tham khảo ông và cũng không thèm nói một lời nào với ông cả. Tuy bị sỉ nhục như thế, Lincoln đã khao khát được cải thiện chính mình. Ông ngồi trong tòa nguyên tuần để quan sát và học hỏi phương cách biện luận của Stanton. Lincoln công nhận phương pháp làm việc hoàn mỹ của Stanton rằng ông chưa bao giờ “thấy điều gì mà hoàn tất và trau chuốt, và được chuẩn bị kỹ càng đến thế”. Tất nhiên Lincoln không quên được sự kiện bị sỉ nhục này nhưng vì tài năng của Stanton nên Lincoln nhận chìm tất cả những oán giận để mời Stanton làm Bộ trưởng Chiến tranh. Tính khí hai người hoàn toàn khác nhau, nhưng lại bổ túc cho nhau. Lincoln thì đầy trắc ẩn, kiên nhẫn và minh bạch, trong khi Stanton thì trơ trơ, dữ dội và bí mật. Vào cuối quan hệ của họ, Stanton không chỉ kính trọng Lincoln mà còn yêu mến ông nữa.
Lincoln luôn biết đặt chuẩn mực cho sự tương kính và nhân phẩm lẫn nhau, và biết kiềm chế và quản lý cảm xúc tiêu cực của mình. Khi nóng giận với đồng nghiệp, ông ngồi xuống viết ra tất cả vào lá thư, biểu lộ tất cả cơn thịnh nộ của ông vào đó. Nhưng ông để sang một bên cho đến khi nguội xuống, và duyệt lại lá thư mình viết. Khi bước sang thế kỷ 20, các nhà nghiên cứu sử khám phá ra bao nhiêu lá thư như thế, với chữ viết của Lincoln phía dưới: “chưa bao giờ gửi đi và chưa bao giờ ký tên”. Có một câu chuyện lý thú về điều này. Một hôm Stanton bực bội với tướng lãnh của mình, nói cho Lincoln biết ông muốn cho vị tướng lãnh đó biết ông nghĩ gì. Lincoln nói: “Tại sao không làm? Viết xuống hết đi.” Khi Stanton viết xong và đọc cho Lincoln nghe, Lincoln nói: “Xuất chúng. Nhưng Stanton, ông định làm gì với nó?” Stanton trả lời: “Tại sao! Dĩ nhiên là gửi đi”. Lincoln nói: “Tôi sẽ không làm thế. Thẩy nó vào trong sọt rác.” “Nhưng tôi mất hai ngày để viết nó”, Stanton trả lời. “Vâng, vâng, và nó đã làm điều tốt đối với ông. Ông cảm thấy tốt hơn, đúng không? Đó là tất cả điều cần thiết. Cứ thẩy vào sọt rác”. Sau khi cằn nhằn, Stanton cũng đã làm như thế.
Lincoln cũng dễ dàng tha thứ những sự tấn công công khai đối với ông. Khi một lá thư của Montgomery Blair viết không tốt về Lincoln trong những ngày đầu của cuộc chiến được xuất hiện trên báo chí mấy tháng sau, Blair ngượng ngùng mang lá thư đến Nhà Trắng gặp Lincoln và cho biết ông sẵn sàng từ chức. Lincoln cho Blair biết ông không dự tính đọc nó, và không mong muốn trả thù. Lincoln nói với Blair: “Quên nó đi. Và đừng bao giờ nhắc hay nghĩ về nó nữa”.
Lincoln cũng luôn bảo vệ đồng nghiệp về những sự đổ lỗi cho nhau. Gideon Welles cho biết Lincoln đã nhiều lần nhận lỗi khi các đồng nghiệp của ông bị người khác tấn công một cách bất công. Khi chiến trận tại Peninsula bị thất bại nặng nề, tướng McClellan đổ lỗi cho Stanton đã không gửi đủ quân số. Vì thế nên Stanton bị công chúng chỉ trích nặng nề, và sau đó yêu cầu Stanton từ nhiệm. Lincoln đã phản bác lại luận điệu của tướng McClellan, rằng tất cả những lính có thể gửi đến mặt trận đã được gửi, và nhấn mạnh: “Bộ tưởng Chiến tranh không thể bị đổ thừa cho những gì ông hoàn toàn không có trách nhiệm”. Ông tuyên bố nhận lãnh những gì mà người ta đã đổ lỗi lên cho Stanton. Các sự tấn công lên Stanton sau đó bị dập tắt.
Lincoln đối phó với áp lực bằng cách tìm sự cân bằng và tăng cường năng lượng cho chính mình. Tướng George McClellan đã để cho quân đội của tướng Robert Lee tấn công Potomac vào tiểu bang Virginia. McClellan đã bất tuân lệnh từ trên, từ chối điều động quân vì công khai tuyên bố bản Tuyên ngôn Giải phóng là đáng bị nguyền rủa. Thêm vào đó là sự tấn công của bên bảo thủ về Tuyên ngôn này. Điều đó làm cho bên Cộng hòa thất bại nặng nề trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ (cuối năm 1862), tuy vẫn giữa được đa số với khoảng cách mỏng. Khi được hỏi ông nghĩ gì về sự thất thoát trong cuộc bầu cử, Lincoln trả lời rằng “Gần giống như thằng bé tại Kentucky, khi ngón chân bị bể trong lúc chạy đến gặp người yêu. Thằng bé nói nó đủ lớn rồi để mà khóc, và quá đau để mà cười”.
Sau tuyên bố này Lincoln đã thay thế McClellan bằng tướng Amrbose Burnside, được biết đến là “tướng chiến đấu/a fighting general”. Nhưng tính khí chiếu chiến đã làm tai họa. Vào giữa tháng 12, ngược với cố vấn của Lincoln, Burnside đã lãnh đạo đội quân Potomac vào trong bẫy chết người tại Fredericksburg, làm cho 13 ngàn lính chết hoặc bị thương. Những tin đồn thất thiệt càng làm cho người dân quan tâm. Nhưng điều làm cho Lincoln khổ tâm nhất chính là những cái chết tang thương của người lính, những người gan dạ, đã hy sinh mạng sống của mình cho hạnh phúc và thịnh vượng tương lai của đất nước này. Nó làm cho ông “trầm cảm”, và ví rằng nếu có một nơi nào tệ hơn địa ngục thì tôi hiện đang ở đó.
Khi gặp các mối đe dọa kinh hoàng, không có gì làm cho ông nghỉ ngơi và hồi phục bằng việc đến nghệ thuật sân khấu để giải trí. Trong vòng bốn năm, Lincoln đến theatre hơn một trăm lần. Xem các buổi trình diễn này, nó giúp cho Lincoln quên đi mọi ưu phiền, mọi suy nghĩ rắc rối, mọi vấn đề chính trị, đang làm ông bận tâm. Lincoln biết có thể người ta nghĩ thiệt là lạ khi ông đi nghe nhạc kịch/cải lương thường xuyên như thế, nhưng chính ông giải thích: “Lạ, nhưng tôi phải có một chút khuây khỏa từ những lo lắng kinh khiếp này, hoặc nó sẽ giết tôi”. Nhưng các sử gia cho rằng đi xem kịch nghệ không chỉ là sự giải thoát cho Lincoln. Ông đến nghe các vở kịch về MacBeth, Lear và Hamlet của Shakespear, để tìm giải pháp cho những gì ông đang gặp phải. Các vấn đề trong các vở kịch này làm ông suy nghĩ, liên tưởng đến các vấn đề ông đối diện.
Qua các vở kịch, phần lớn là thảm kịch này, nó giúp cho Lincoln cảm nhận được những trớ trêu trong cuộc sống. Khi không ngủ được, ông tìm người thân quen, kể chuyện, cười trong đường dây mỏng manh giữa bi kịch và hài kịch trong cốt chuyện, và những tiếng cười đó mang tính “bảo vệ cuộc sống” cho chính mình. Khi người khác buồn ngủ quá không thể mở mắt nỗi thì lúc đó ông mới nhận ra và bảo người ta về đi ngủ. Đọc tụng các kịch bản này là cách để Lincoln chia sẻ các vấn đề chung của con người trong khoảng thời gian bất thường, cô đơn một cách bất nhân.
Ngoài ra, Lincoln cũng tìm mọi cách để tha tội cho những người lính đã bỏ chạy khỏi chiến cuộc hay ngủ quên… Trong khi Stanton và các sĩ quan đề nghị trừng phạt tử hình để duy trì kỷ luật của quân đội, thì Lincoln tìm mọi lý do chính đáng để cứu vớt mạng sống của họ. Khi ông hình dung được người phạm tội đã làm gì và tìm được lý do để tha thứ họ, ông đi ngủ một cách hạnh phúc vì biết rằng họ và gia đình họ sẽ vui mừng khi nhận tin/chữ ký của ông.
Nắm bắt được suy tư và nhiệt độ của môi trường chung quanh
Lincoln nắm bắt thời gian, cơ hội, thử thách và biết khi nào tiến, khi nào lùi. Nhận thức khi nào phải quyết định ra bản Tuyên ngôn Giải phóng là sự quyết định và quyết tâm của chính ông. Thời gian và cơ hội đúng đến thì không thể bỏ qua được. Tuy đầy quyền lực trong tay trong cương vị tổng thống, Lincoln cũng thú nhận rằng ông không thể kiểm soát được sự kiện, mà thật ra sự kiện kiểm soát ông thì đúng hơn. Theo ông nếu ra Tuyên ngôn vào sáu tháng trước thì dư luận sẽ không thuận lợi, và không tồn tại được. Ông ví việc quyết định vào đúng thời điểm là vô cùng quan trọng, giống như người trồng cây lê, nhưng nếu mất kiên nhẫn chờ đợi, thì hái sớm trái không những không ngon mà làm hỏng cả trái lẫn cây. Nhưng nếu kiên nhẫn thì sẽ có trái chín rơi vào bàn tay mình.
Lincoln kiên nhẫn lắng nghe và quan sát sự kiện, và những thay đổi, dịch chuyển trong tư duy của nội các ông cũng như của người dân. Lincoln là người thông minh, sáng dạ/trí, nắm bắt được khi nào gió đổi chiều khi ông đọc cái bài xã luận trên các tờ báo thời đó, sự trao đổi giữa người dân với nhau, và giữa các quân nhân/binh lính với nhau. Lincoln hiểu rằng sẽ có một lực lượng chống đối bản Tuyên ngôn, nhưng họ không đủ mạnh để tiêu diệt mục tiêu này. Lincoln luôn quan sát và nắm bắt cơ hội, thay vì bị cơ hội lôi kéo mình theo, hay bị mất sức vì vấn đề chưa chín mùi, thời gian chưa thuận tiện, hay chưa đủ lực để thay đổi.
Lincoln hiểu rõ đấu tranh tư tưởng với chính mình là mệt nhất, nhưng phải làm cho đến khi nào ông thấy rõ vấn đề và tự tin với nhận định và quyết định của mình. Cả tiến trình lấy quyết định của ông trong vấn đề này là một thử thách thâm hiểm, quanh co, nhưng khi thấy rằng thời điểm đã đến, ông không còn ngần ngại nào cả, mà chỉ có con đường duy nhất là tiến về phía trước. Khi những người khác nhìn thử thách đối diện là một đe dọa đối với cuộc thử nghiệm của các nhà lập quốc Hoa Kỳ, ông nhìn thấy cơ hội ra đời của một nền tự do mới. Vì tin vào tiến trình và tiến triển này, nó giúp ông không chỉ đọc được mối quan tâm của người dân và còn định hình được nó, từ trong nội các của mình ra đến ngoài xã hội rộng lớn hơn.
Lincoln cũng biết phối hợp tài tình giữa khả năng lãnh đạo giao dịch và chuyển hóa (transactional and transformational leadership). Lãnh đạo giao dịch và chuyển hóa có nhiều yếu tố ngược nhau. Lãnh đạo theo xu hướng giao dịch thì hoạt động một cách thực tiễn. Họ thu hút những người theo họ vì quyền lợi riêng tư, chủ trương có qua có lại, thương lượng, trao đổi, và tưởng thưởng để tìm hỗ trợ và để ảnh hưởng lên hành xử của người chịu lãnh đạo. Lãnh đạo chuyển hóa thì truyền cảm hứng lên người khác, để họ nhận diện được những điều lớn hơn chính họ, từ tổ chức cho đến cộng đồng, vùng miền và đất nước, và trên hết, nhận diện một cách trừu tượng những lý tưởng cao cả của một quốc gia. Các lãnh đạo như thế kêu gọi thực hiện các nguyên tắc đạo đức và các mục tiêu cao cả, nhìn xa hơn những gì đối diện với hiện tại để thấy được tương lai chính đáng để đấu tranh, để nỗ lực thực hiện cho được mục tiêu.
Đối với Lincoln thì những chiến lược mang tính thực tiễn, lãnh đạo giao dịch là chìa khóa, là ốc vít của cổ máy, là công cụ, hay nói chung là mảnh quan trọng đối với lãnh đạo mang tính nguyên tắc và chuyển hóa. Lincoln có tài nói chuyện, thuyết phục và vận động người cho mục tiêu của mình. Lincoln cũng biết rằng không có cơ sở vật chất thì không thể đi xa hay đạt các mục tiêu ngắn hạn trước mặt. Giống như một ca sĩ chuyên nghiệp hát được nốt nhạc thấp nhất và lên được nốt nhạc cao nhất, người họa sĩ vẽ nét chi tiết nhất nhưng cũng điêu luyện trong bức tranh tổng thể, một vận động viên đua xe đạp có nhịp tim từ 30 đến 180 một phút, Lincoln cũng nắm bắt các chi tiết nhỏ như thế, hiểu được động cơ/tâm lý của con người ở tầm thực tế, nhưng không sao lãng các vấn đề chiến lược lớn hơn. Tùy theo nhóm người nói chuyện, Lincoln sử dụng kỹ năng lãnh đạo nào nhiều hơn.
Cho nên Lincoln hiểu rằng nếu người da đen hy sinh cuộc sống của họ cho lý tưởng cao cả hơn, thì vấn đề động viên để họ làm việc đó phải là mạnh mẽ nhất, ngay cả sự hứa hẹn được tự do, được giải phóng. Khi đã hứa, thì phải giữ.
Trong 18 tháng đầu của cuộc nội chiến, chỉ có ba trong mười người lính cho biết họ sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu giải phóng nô lệ, còn phần lớn thì chỉ quan tâm đến việc bảo vệ Union. Được Lincoln lãnh đạo, tỷ số đó thay đổi, và những người lính nhìn nhận việc duy trì Union và giải phóng nô lệ liên quan mật thiết với nhau, không thể tách rời. Làm sao Lincoln làm được điều này?
Lincoln luôn sẵn sàng tiếp xúc, hiện diện và dễ dàng tiếp cận với mọi thành phần. Lincoln gieo hạt mầm tin tưởng và trung thành trong lòng người lính ở mọi cấp bậc. Lincoln sẵn lòng chia sẻ các món ăn mình có với họ. Ông xem chỗ ngủ của họ ra sao, hỏi thăm gia đình của họ, trò chuyện với họ, và không những thế, khi những người lính của Union hay Confederate bị thương, ông đối xử như nhau. Tất cả những nơi Lincoln đi, ông đều mời gọi lính đến gặp ông nếu họ cảm thấy bị đối xử bất công. Khoảng hai ngàn lính đã nhận lời đến gặp ông, để than phiền, để được nghe kể chuyện, hay chỉ đơn giản để gặp mặt vị tổng tư lệnh. Chủ trương hay chính sách “cửa mở” (open door policy) này là sợi dây nối người dân với quyền lực đang điều hành quốc gia. Những câu chuyện gặp gỡ giữa Lincoln với người lính đã lan rộng trong quân đội, cùng với chủ trương tìm mọi cách để tha tội cho lính, đã thu phục nhân tâm. Các lá thư mà binh lính gửi về cho gia đình họ về sự đồng cảm, trách nhiệm, tử tế, dễ dàng gặp mặt Lincoln, và xem ông như người cha. Họ gọi ông là Cha Abraham, Bác Abe hoặc Cụ Abe. Nỗi đau và khổ hạnh trên khuôn mặt ông làm cho người lính cảm thấy ông cũng như họ, cũng gian truân, đau khổ như họ trong cuộc chiến này. Nhiều người lính đã viết thư bày tỏ họ sẵn sàng chiến đấu cho mục tiêu bảo vệ Union và giải phóng nô lệ. Chính những lá thư này không những thay đổi người lính mà cả gia đình họ nữa.
Người da đen đã nhập ngũ ở một tỷ lệ kỷ lục, hàng chục ngàn người. Nhưng lúc đó vẫn còn nhiều phân biệt, lương lính da đen không bằng da trắng, và họ cũng không thể trở thành sĩ quan. Khi Frederick Douglas trình bày điều này, Lincoln ghi nhận điều đó là phân biệt, và ông hứa họ sẽ được trả lương đồng đều như nhau. Và kết quả là: 200 ngàn lính da đen nhập ngũ, và chiến đấu một cách gan dạ.
Lincoln để tham vọng chung, tập thể lên trên cá nhân. Mùa hè 1864, số lính tử trận, bị bắt hoặc mất tích của cả hai bên đều khủng khiếp. 580 ngàn ở miền Bắc và 470 ngàn ở miền Nam. Nó trở thành một vấn đề/ván cờ chính trị khi bầu cử sắp diễn ra. Đảng Cộng hòa quan ngại có khả năng thua. Người đứng đầu đảng Henry Raymond cảnh báo Lincoln vào tháng Tám 1864 rằng để Cộng hòa có thể thắng thì Lincoln phải bắt đầu thương thuyết hòa bình với phía Confederate, chỉ bàn về thống nhất thôi, vấn đề nô lệ tính sau. Lincoln trả lời tất nhiên ông muốn thắng một nhiệm kỳ nữa, nhưng ông cũng muốn hoàn tất công việc của mình. Lincoln cho biết để thỏa thuận điều kiện hòa bình mà không chấm dứt nô lệ đối với ông là “sự hủy hoại hoàn toàn”. Ông thà thua chứ không thể từ bỏ giải phóng nô lệ. Lincoln khẳng định rằng nếu từ bỏ Union và tự do thì ông nên bị lên án đúng lúc và mãi mãi.
Phía Dân chủ chọn tướng George McClellan làm ứng viên tổng thống để chấm dứt chiến tranh sớm, nhưng tách rời vấn đề nô lệ ra một bên. Nhưng Lincoln đã thắng vẻ vang, Electoral College có tỷ lệ 212 so với 21, và 7 trên 10 người lính bỏ phiếu cho ông. Họ hiểu bỏ phiếu cho ông có thể kéo dài cuộc chiến, và nhiều rủi ro cá nhân, nhưng họ ủng hộ Lincoln vì ông từng tuyên bố rằng cuộc đấu tranh này “không phải cho hôm nay thôi, mà còn cho mãi mãi về sau”. Ông xác định rằng ông chỉ chiếm Nhà Trắng một thời gian tạm thời thôi, và ông là một chứng nhân sống để mọi người thấy con của họ một ngày nào đó cũng có thể đến đây giống như chính ba của họ đã có. Một chính quyền tự do bảo đảm được cơ hội bình đẳng cho các kỹ nghệ, công nghệ và sự thông minh, và rằng mọi người có một số đặc quyền như nhau, với tất cả khác vọng của con người. Với ông đó mới là điều quan trọng để chiến đấu và bảo vệ.
Lincoln biết rằng Sắc lệnh Tổng thống không có giá trị lâu dài, và để bảo đảm nô lệ bị xóa bỏ vĩnh viễn, hiến pháp phải được tu chính. Tu chính Án số 13 được giới thiệu tại quốc hội vào ngày 6 tháng Giêng 1865. Ba tuần sau, khi được biết chỉ thiếu có hai ghế để dành được 2/3 đa số, Lincoln đã tìm mọi cách để sử dụng lãnh đạo giao dịch. Ông hứa hẹn nhiều thứ, kể cả công việc cho gia đình, bạn bè, tha thứ v.v… để chiếm cho được hai phiếu này (xin xem phim Lincoln). Khi Tu chính Án 13 được thông qua, đoàn người kéo đến Nhà Trắng chúc mừng ông. Lincoln tuyên bố đây là một trong các dịp để “chúc mừng quốc gia và toàn thể nhân loại”. Nhưng ông cũng nhắc nhở mọi người đừng quên công việc lớn lao trước mặt là nó cần phải được thượng viện thông qua.
Khi được khen ngợi “Người Giải phóng Vĩ đại”, Lincoln nhấn mạnh ông thật sự chỉ là công cụ thôi. Người dân và quân đội đã thể hiện tinh thần chống lại nô lệ, do đó mục tiêu mới thành công. Lincoln tuyên bố rằng qua biện pháp này, những hy vọng tốt nhất của ông sẽ được thực hiện. Lincoln không sống để thấy giấc mơ của ông. Nó đã được 3/4 các tiểu bang thông qua vào tháng 12 năm 1865.
Trên hết, đối với Lincoln, lời hứa là tất cả. Khi đến gần ngày 1 tháng Giêng 1863, ngày mà Lincoln hứa sẽ cho thi hành Tuyên ngôn Giải phóng, không khí ngờ vực không biết Lincoln có dám thực thi những gì đã cam kết trong bản Tuyên ngôn Giải phóng không gia tăng, vì nó rất có thể làm cho sĩ quan từ chức và hàng 100 ngàn lính buôn súng. Nhưng những ai biết rõ Lincoln sẽ không đặt câu hỏi như thế. Lincoln đã bị trầm cảm nặng nề vì đã không giữ được lời hứa cưới bà Mary Todd, rồi không phát triển kế hoạch hạ tầng cơ sở nói riêng và kinh tế cho Illinois nói chung làm cho Lincoln trầm cảm đến độ muốn tự tử. Sau bài học này ông rút kinh nghiệm, chỉ hứa hẹn những gì có thể làm được, và quyết tâm thực hiện nó, giúp ông phục hồi và phục hưng sự nghiệp chính trị của ông. Những người hiểu Lincoln như Frederick Douglas thì tin tưởng rằng một khi Lincoln đã hứa rồi thì không rút lại lời hứa. “Nếu ông không dạy cho chúng ta điều gì khác, thì ông đã dạy cho chúng ta tin tưởng vào lời nói của ông”, Douglas cam chắc.
Vào ngày đầu của năm mới, Lincoln vui mừng chào đón khách đến Nhà Trắng, hơn 1000 người. Tuy thế ông vẫn có vẻ suy tư, để tâm trí nơi nào đó. Trước đó một ngày, ông triệu tập nội các lần nữa. Kỳ này, ông quyết định thêm một phần quan trọng vào trong bản Tuyên ngôn Giải phóng. Bản mới quyết định sẽ cho người da đen gia nhập quân đội. Lúc ký bản này, chỉ có khoảng độ 12 người chứng kiến. Lincoln tuyên bố trước khi ký: “Tôi chưa bao giờ trong cuộc đời mình cảm thấy chắc chắn làm điều gì hơn là điều tôi sắp sửa ký tên vào văn bản này. Nếu tên tuổi tôi có bao giờ đi vào lịch sử, nó sẽ là hành động này, và toàn bộ tâm hồn tôi trong đó.”
Tuy nhiều người theo xu hướng bãi bỏ nô lệ khắp nơi vui mừng với tin này, thành phần Dân chủ lại bắt đầu phản đối và chống đối. Đến nỗi họ còn cổ động lính giải ngũ. Có nơi lính bày tỏ ý kiến rằng họ tham gia để bảo vệ Union, không phải cho nô lệ. Những người bạn thân của Lincoln, kể cả Chánh án Tối cao Pháp viện David Davis, hay Orville Browning, cảnh báo ông về nguy cơ đe dọa của Tuyên ngôn, Lincoln không sờn lòng. Lincoln cũng không quan ngại về việc lính đào ngũ, vì theo ông tin tưởng, số lược lính đào ngũ sẽ không nhiều, và số lượng lính người da đen tham gia sẽ bù đắp vào số bỏ đi. Ông tin tưởng rằng đây là thời điểm đúng, thuận lợi để làm việc này.
Vài lời kết
Tuyên ngôn Giải phóng (Emancipation Proclamation) và Tu Chính án 13 đã dọn đường để xóa bỏ chế độ nô lệ về sau. Trước quốc hội Hoa Kỳ, Lincoln tuyên bố: “Hỡi các công dân Hoa Kỳ, chúng ta không thể nào tránh được lịch sử… Bằng cách trao tự do cho người nô lệ, chúng ta bảo đảm được tự do cho người tự do…”.
Liền sau cuộc nội chiến, Lincoln minh định rằng đã quá đủ mạng sống hy sinh, và “Chúng ta phải dập tắt sự oán giận nếu chúng ta mong đợi hòa thuận và đoàn kết”. Đối với thành phần đứng đầu của các nhóm phản kháng, kể cả những người tồi tệ nhất, Lincoln không hề muốn sự giết hại nào. Để tiến trình hòa giải không bị ảnh hưởng tiêu cực, ông muốn họ dời đi nơi khác, vì nếu ở thì họ sẽ phải bị trừng phạt về tội ác của mình. Những người lính của bên thua cuộc được cho về nhà, về với gia đình họ, và được hứa sẽ không hề bị sách nhiễu, nếu họ không làm hại gì sau đó. Tướng Ulysses Grant tường trình cho Lincoln chủ trương như thế, và cho Lincoln biết những người lính bên thua cuộc vẫn tiếp tục được giữ ngựa và súng tự vệ. Sau khi nghe tường trình, mặt ông Lincoln sáng lên vì hài lòng.
Sức mạnh của trí thông minh cảm xúc chính là đắc nhân tâm. Lincoln hiểu rõ nhu cầu cảm xúc của các đồng nghiệp; không để những lấn cấn quá khứ trở thành độc hại; chuyển hóa các thù hận cá nhân; đặt chuẩn mực cho sự tương kính và nhân phẩm lẫn nhau, và biết kiềm chế giận dữ; bảo vệ uy tín của đồng nghiệp khi có những sự nghi kỵ hay đổ lỗi cho nhau; tìm sự cân bằng và tăng cường năng lượng khi đối phó với các áp lực; hiểu rõ uy tín và lời hứa là tất cả; biết khi nào tiến khi nào lùi; biết phối hợp tài lãnh đạo giao dịch và chuyển hóa v.v…
Sự vĩ đại của Lincoln nằm ở sự cố gắng học hỏi và tự học hỏi không ngừng, ở tinh thần khiêm nhường hiếm có và luôn sẵn sàng nhận lỗi nếu thấy mình sai để học hỏi, và nhất là ở lòng tốt bụng và tử tế của ông. Trong lịch sử nhân loại hiếm có người lãnh đạo chính trị tối cao nào có được đầy đủ những đức tính này. Có thể vì Lincoln đã từng ném mùi thất bại bao lần, từng bị trầm cảm, bị đối xử tồi tệ, để rồi phải tự vươn lên qua muôn vàn khó khăn nhưng bằng chính công sức và con người thật của mình. Lincoln đã luôn vượt qua được chính mình, và không bao giờ gian dối hay lường gạt bất cứ ai. Ông đã trở thành tấm gương cho toàn dân Mỹ, và thế giới, cho mỗi người tự nhìn ra được sức mạnh thật sự đến từ đâu. Tính cách nhất quán của Lincoln, như sự tinh tế, kiên nhẫn, thận trọng, và đồng cảm, đã truyền cảm hứng và chuyển hóa tất cả các thành viên trong nội các của ông. Đằng sau sự dịu dàng và tử tế của Lincoln, điều chắc chắn là Lincoln là một lãnh đạo cực kỳ phức tạp, tham vọng, cứng đầu và khó hiểu nhất. Những cộng sự của ông có thể chỉ trích, phê phán, làm ông bực mình, tức giận, áp lực lên ông v.v… Và ông chấp nhận tất cả miễn sao họ làm công việc với sự đam mê và khả năng, và cùng nhau góp phần thực hiện mục tiêu chung.
Khi một quốc gia có quá nhiều hận thù và chia rẽ, lãnh đạo như Abraham Lincoln là chìa khóa, là giải pháp. Nhưng kiếm được một người như vậy trong những thời điểm như thế không hề dễ. Các nghiên cứu về lãnh đạo học cho biết tài lãnh đạo, nhất là thông minh cảm xúc, ai cũng có thể học hỏi, tập luyện và trau dồi. Nhưng hai câu hỏi: lãnh đạo được sinh ra hay được cấu tạo thành, và thời thế tạo anh hùng hay anh hùng định hình thời thế, vẫn còn là điều gây nhiều tranh cãi và khó có thể khẳng định dứt khoát hiện nay; nhất là qua một tác nhân lịch sử tầm lớn như Abraham Lincoln.
Phạm Phú Khải
Úc Châu, 26/08/2019
Chú thích:
[*] Ba vai trò quan trọng hàng đầu gồm Ngoại giao, Ngân khố/Kinh tế, và Công lý thì Abraham Lincoln chọn ba người từng là đối thủ của ông trong cuộc chạy đua thành ứng viên tổng thống trong Đảng Cộng hòa: William Seward, Salmon Chase, và Edward Bates. Lincoln cũng chọn một luật sư cực kỳ giỏi, tuy trước đây từng coi thường chế giễu ông, Edwin Stanton, làm Bộ trưởng Chiến tranh.
Tài liệu tham khảo:
Các tài liệu và dữ kiện chính về Abraham Lincoln trong bài này là từ hai tác phẩm sau đây:
1. Doris Kearns Goodwin, Leadership: In Turbulent Times, September 18, 2018.
2. Doris Kearns Goodwin, Team of Rivals: The Political Genius of Abraham Lincoln, Simon & Schuster, September 26, 2006.