Vào ngày 7 tháng 12 năm 2020, Ủy ban Thường trực Liên đới về Ngoại giao, Quốc phòng và Thương mại của Úc (Ủy ban) đã trình bày bản báo cáo cho cuộc Điều tra về các biện pháp trừng phạt nhằm giải quyết các hành vi vi phạm nhân quyền, có tiêu đề “Tội phạm, tham nhũng và trừng phạt: Úc có nên tham gia phong trào luật Magnitsky Toàn cầu?”.
Đây là kết quả của quá trình vận động lâu dài, bao gồm nhiều cuộc điều trần kéo dài tám tháng tại quốc hội Úc, cùng với sự đóng góp của nhiều cá nhân nổi bật, như luật sư nhân quyền Amal Clooney và luật sư uy tín Geoffrey Robertson, và 162 đệ trình từ nhiều cá nhân, tổ chức chính phủ và phi chính phủ trên khắp thế giới.
Ủy ban cuối cùng đã đưa ra các nguyên tắc và khuyến nghị chung vào tháng 12 năm 2020, bao gồm khuyến nghị nên ban hành ‘Đạo luật Magnitsky’ của Úc. Sau đây là một vài nguyên tắc và khuyến nghị đáng chú ý:
- Nên áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với thành viên gia đình trực tiếp và những người thụ hưởng trực tiếp của những kẻ vi phạm nhân quyền. (Khuyến nghị 7)
- Các biện pháp trừng phạt bao gồm hạn chế về thị thực / đi lại, hạn chế tiếp cận tài sản và hạn chế quyền truy cập vào hệ thống tài chính của Úc. (Khuyến nghị 29) v.v…
- Các biện pháp trừng phạt có thể áp dụng cho tất cả các thực thể, bao gồm các cá nhân, các tổ chức doanh nghiệp và cả các tổ chức nhà nước và ngoài nhà nước. (Khuyến nghị 8)
Thật ra, quá trình vận động tại Úc cũng đã bắt đầu nhiều năm qua, nhưng chính phủ liên đảng hiện nay dường như không chia sẻ sự khẩn cấp và tầm quan trọng của đạo luật Magnitsky. Chính phủ Úc cho rằng chế độ trừng phạt độc lập (autonomous sanctions) và các “trắc nghiệm nhân cách” (character test) như thể một phần của luật di trú, là đủ rồi. Nhưng nhiều chuyên gia về luật và nhân quyền không tán thành quan điểm này. Bởi các lý do sau:
Một, không rõ ràng và phức tạp. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) biện luận rằng luật liên quan đến trừng phạt độc lập hiện tại của Úc chỉ áp dụng cho một số quốc gia giới hạn, và nó “phức tạp, chỉ khi nào cần, không rõ ràng, và rất khó để điều hướng. Không có tổ chức xã hội dân sự tham gia trong tiến trình. Những cá nhân được nêu tên trong các tòa án quốc tế và báo cáo của Liên Hiệp Quốc được liệt vào danh sách, nhưng những cá nhân khác thì không.”
Hai, các biện pháp chế tài, trừng phạt hiện tại còn nhiều giới hạn. Từ lâu nay, việc ngăn chặn các hành vi vi phạm nhân quyền chủ yếu dựa vào khả năng truy tố và bỏ tù đối với thủ phạm, thông qua các biện pháp pháp lý tại Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC), hoặc trong các khu vực pháp lý trách nhiệm. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia biện luận rằng hiệu quả của các phương pháp này còn hạn chế, cả về mặt pháp lý, bởi các học thuyết đặc biệt của luật pháp quốc tế, nhưng ngoài đó ra, hiện nay đang có nhiều nghi vấn về sự thành công của ICC.
Ba, những sự vi phạm mang tính hệ thống nhưng thủ phạm chính đằng sau sự vi phạm này vẫn không bị hề hấn gì. Chúng ta đều biết vi phạm nhân quyền thường xảy ra ở các nhà nước độc tài nhiều hơn là dân chủ. Vi phạm tại các nước dân chủ phần lớn là do sơ hở của luật pháp và vi phạm xảy ra ở tầm cá nhân, thường là những người thi hành công luật. Còn vi phạm tại các nước độc tài phần lớn là do sự coi thường pháp luật, bất kể pháp luật đó có đúng sai hay giá trị ra sao, và vì kẻ cầm quyền coi mình ở trên pháp luật. Nó được bảo kê và bao che bởi một số cá nhân nắm quyền lực trong tay. Do đó để sự trừng phạt hiệu quả thì phải nêu đích danh thủ phạm này, áp dụng biện pháp chế tài đối với chính họ và gia đình của họ, kể cả tài sản và việc đi ra nước ngoài. Nói cách khác, trừng phạt chung chung, như cấm vận đối với một quốc gia, thì người dân bị thiệt thòi/hại hơn là chính thủ phạm. Còn trừng phạt nhắm vào đối tượng hẳn hoi (targeted sanctions), không chỉ điểm mặt chỉ tên, mà còn thật sự đánh thẳng vào nguồn sống của những cá nhân hay tổ chức vi phạm này.
Đó là những nguyên do chính mà luật Magnitsky có tính hấp dẫn và thực tiễn hơn các luật chế tài khác hiện nay.
Ông Bill Browder khuyến khích Úc nên có một đạo luật tương tự, vì Úc luôn đề cao nhân quyền và chống tham nhũng ở Châu Á Thái Bình Dương. Browder biện luận: “Là một thành viên không thể thiếu của Năm Mắt/Five Eyes, sẽ rất có ý nghĩa đối với Úc khi đi theo bước chân của Hoa Kỳ, Anh và Canada. Nếu Úc không có Đạo luật Magnitsky của riêng mình, đất nước này có nguy cơ trở thành một thỏi nam châm hút tiền bẩn từ những kẻ vi phạm nhân quyền và lãnh đạo chính trị đê tiện từ khắp nơi trên thế giới ”.
Thương gia tỷ phú Browder là người nỗ lực vận động để Đạo luật Magnitsky tại Mỹ được hình thành năm 2012, sau này mở rộng thành Global Magnitsky Act 2016. Ông cũng tích cực vận động tại các quốc gia khác như Anh, Úc, Canada và Âu châu. Hiện nay có 9 nơi đã ban hành đạo luật kiểu Magnitsky, bao gồm Mỹ, Canada, Estonia, Gibraltor, Jersey, Kosovo, Lithuania, Latvia, Anh. Riêng Âu châu, gồm 28 quốc gia thành viên, đang nghiên cứu thông qua bộ luật Magnitsky, nhưng vì Covid-19 nên bị trì hoãn. Còn Úc thì có khuyến nghị một số thay đổi, và luật sư uy tín Geoffrey Robertson, người đại diện cho Browder để vận động tại Úc, muốn nó trở thành luật tốt nhất trong việc trừng phạt những kẻ vi phạm nhân quyền và tham nhũng.
Luật sư Robertson đã soạn sẵn một dự luật và nộp cho Ủy ban của quốc hội Úc để chính quyền Úc có thể sử dụng một phần, hay toàn phần, và đưa ra quốc hội tranh luận trước khi thông qua thành luật. Robertson biện luận rằng muốn đạo luật Magnitsky có hiệu lực thì nó nên được áp dụng luôn cả đối với gia đình của những người vi phạm nhân quyền, chẳng hạn như những bậc cha mẹ họ trả tiền để đưa con cái ra nước ngoài điều trị tại bệnh viện và những đứa trẻ mà họ muốn gửi đến các trường tư thục và đại học đắt tiền. Đi xa hơn, Robertson quan niệm rằng nếu luật của Úc muốn đối phó với tham nhũng ở quy mô lớn, luật đó nên áp dụng cho các tập đoàn cũng như các cá nhân, không chỉ bằng cách cho phép liệt kê các giám đốc và cổ đông lớn, mà còn cho phép chính các công ty bị xóa sổ trong việc đăng ký và bị cấm giao dịch.
Theo thông lệ, chính quyền Úc nên phản hồi đối với các khuyến nghị của Ủy ban trong vòng ba tháng. Có lẽ từ đây đến cuối tháng Ba, chính quyền Úc sẽ cho biết quan điểm và ý định của mình đối với các khuyến nghị và báo cáo của Ủy ban.
Đã đến lúc các nền dân chủ đề cao và tôn trọng nhân quyền phải có chính sách và chiến lược thực tiễn, và phải phối hợp với nhau, để buộc những kẻ chủ mưu ban hành sắc lệnh mà đã gây ra bao tội lỗi về nhân quyền một cách hệ thống hoặc trầm trọng. Trừng phạt những kẻ vi phạm này, thay vì người dân, sẽ hiệu quả hơn nhiều, tuy nó chưa giải quyết được công lý của nạn nhân. Các tòa án ICC, hay tương tự, vẫn phải tiếp túc đóng vai trò của nó. Nhưng Magnistsky sẽ nhắm vào mục tiêu và đối tượng cụ thể, rõ ràng và do đó hiệu quả hơn.