Trong những ngày qua, bao nhiêu bài và ý kiến đã được viết về 39 nạn nhân Việt Nam, phần lớn là từ miền Bắc như Hà Tĩnh và Nghệ An. Danh tính của họ đã được Bộ Công an Việt Nam và cảnh sát hạt Essex củ Anh công bố vào ngày 8 tháng 11.
Hiện nay chúng ta chưa biết hết được câu chuyện của từng người. Một vài khía cạnh cá nhân của cô Bùi Thị Nhung, hay cô Phạm Thị Trà Mi, được chia sẻ. Mỗi câu chuyện đều là nỗi thương tâm. Mỗi mạng sống đều quan trọng. Không biết khi nào và có thể nào biết từng hoàn cảnh của mỗi người không. Và có mấy người thật sự quan tâm để muốn biết.
Chuyện đưa thi thể về lại Việt Nam bằng cách nào để đáp ứng được nguyện vọng của gia đình, theo truyền thống của phần lớn gia đình Việt Nam, cũng là một vấn đề phức tạp và nhức nhối không kém. Nếu xảy ra tại Úc, xác suất rất cao là chính quyền Úc, cũng như dân chúng Úc sẽ ủng hộ hết mình, tài trợ cho nguyên chiếc máy bay (charter plane) để đưa thi hài về Việt Nam, đến tận sân bay nội bài. Không biết nước Anh có làm vậy không?
Người đã chết trong vụ này thì quá tội nghiệp. Người còn sống thì khổ tâm không kém.
Sẽ còn rất lâu để biết rõ được đường dây buôn người mà 39 người Việt đã trở thành nạn nhân trong vụ này. Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc tổ chức Ủy ban Cứu người Vượt biển (BPSOS), đã trình bày một số chi tiết quan trọng về đường dây nhiều mắc xích. Liệu sẽ có cuộc điều tra ngọn ngành hay không, và dù có đi nữa, có tìm ra được thủ phạm hay không, là một câu hỏi chưa thể có câu trả lời hiện nay.
Chính quyền Việt Nam có thể làm gì?
Nhiều lắm. Tìm ra các thủ phạm đằng sau vụ này là điều tối thiểu. Tất nhiên nó đã có bảo kê, và có bao nhiêu dây dưa rễ má đến tầng cao, nếu không phải là cao nhất, của chính quyền. Việt Nam có gần cả triệu công an thuộc mọi ngành nghề, và công an Việt Nam cũng trách nhiệm luôn phần di trú, gọi là Cục Xuất Nhập Cảnh. Những ai đi khỏi, hay về lại, Việt Nam thì họ đều biết. Nhất là những người bất đồng chính kiến, các nhà hoạt động độc lập, hay các thành phần bị liệt kê là “phản động”. Sẽ không quá đáng khi cho rằng trong mắt giới cầm quyền và những người thực thi công quyền tại Việt Nam, những thành phần này được xem là nguy hiểm hơn cả những kẻ tội phạm hình sự, kể cả tội phạm buôn người (human trafficking) và chuyển nhập lậu người (people smuggling). Họ cũng nguy hiểm hơn cả thành phần tình báo Trung Quốc xâm nhập và lũng đoạn chính trị, kinh tế và văn hóa Việt Nam nữa. Cách xử lý của các cơ quan công quyền và lãnh đạo chính trị Việt Nam cho thấy quan niệm và chủ trương như thế.
Liệu có nên tin tưởng chính quyền Việt Nam sẽ nỗ lực điều tra và chống tận gốc nạn buôn người và chuyển nhập lậu người sau sự kiện này, mặc dầu Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có lên án, và chỉ đạo “cơ quan chức năng sớm hoàn tất điều tra, truy tố, xét xử để nghiêm trị những kẻ phạm tội” hay không, để nó không xảy ra lần nữa?
Nhưng trước khi tiến hành “điều tra, truy tố, xét xử để nghiêm trị những kẻ phạm tội”, thì cần phải có những chính sách và phương pháp đúng đắn. Đầu tiên là “phòng ngừa/prevention” và sau đó là “phát hiện/detention”. Phòng ngừa cần phải có sự phối hợp của tất cả các ban ngành chính phủ tại Việt Nam. Phát hiện phải cần có sự phối hợp ít nhất từ cục an ninh, cục xuất nhập cảnh và cảnh sát đặc nhiệm. Vấn nạn buôn người tại Việt Nam đã xảy ra vài thập niên nay. Những trẻ em Việt Nam bị buôn người sang Trung Quốc và Cambodia làm nô lệ tình dục đã xảy ra ít nhất hai thập niên qua, nếu không phải lâu hơn. Nhưng cho đến bây giờ ông Thủ tướng ra chỉ thị các ban ngành thực hành mà vẫn không nắm rõ mục tiêu và chiến lược, thì kết quả, nếu có, cũng sẽ rất giới hạn.
Bài nghiên cứu của Oanh Nguyen và Hoan Nguyen, được xuất bản trên tạp chí Flinder Law Journals năm 2018, cho biết sự thất bại từ luật pháp, chính sách, đến việc thi hành các pháp luật và chính sách này, đặc biệt từ cảnh sát Việt Nam, và nói chung các cơ quan công quyền Việt Nam. Hai tác giả đề nghị Việt Nam nên cải thiện các chiến lược để chủ động nhận diện và hỗ trợ nạn nhân của nạn buôn người, nhất là trong phạm trù xuất khẩu lao động, mại dâm và trẻ em lao động.
Nếu chính quyền Việt Nam biết lắng nghe, ít nhất với những nghiên cứu khoa học và học thuật đúng đắn, như hai tác giả nêu trên, hay bao nhiêu các nghiên cứu và đề nghị khác tại Việt Nam và trên thế giới, kể cả Liên Hiệp Quốc, thì chuyện 39 “thùng nhân” có xác suất rất thấp để xảy ra.
Điều tiếp chính quyền Việt Nam có thể làm là cách tiếp cận và giải quyết vấn nạn này. Sau khi đã trừng phạt những kẻ buôn người, chính quyền phải có trách nhiệm giúp đỡ nạn nhân và gia đình họ. Họ đã trãi qua bao nhiêu đau khổ, mất mát, chấn thương trong chặng đường này. Có người bị hãm hiếp, đánh đập, hâm dọa, luôn sống trong sợ hãi. Và cũng có người bị giết hại, trên đường đi. Nó sẽ không bao giờ phai nhòa trong đầu họ. Cho nên họ cần được hỗ trợ, nâng đỡ, và điều trị tâm lý, để vượt qua và để làm lại cuộc đời. Một cuộc đời đầy thương tích. Đầy nghịch cảnh. Hai tác giả Oanh Nguyen và Hoan Nguyen cũng kết luận rằng cần phải cải tổ luật, nhất là vì những nạn nhân, dù biết mình bị lường gạt, cũng không dám khai báo vì sợ bị luật pháp xét xử. Luật pháp và cách thi hành pháp luật như thế thảo nào không những thất bại hoàn toàn trong việc bảo vệ nạn nhân mà còn là động cơ để những kẻ buôn người tiếp tục trục lợi tối đa và vẫn tiếp tục hoành hành.
Điều tiếp theo mà tôi muốn nói, vắn tắc thôi vì không thể đi sâu trong bài này, là vấn đề hộ chiếu. Hai trong những dấu hiệu mà chúng ta, ngay cả người không chuyên môn hay trách nhiệm về vấn nạn buôn người, có thể nhận diện ra ai là nạn nhân, là hai yếu tố sau. Một, là sự sợ hãi thể hiện rất rõ nơi nạn nhân mà mình tiếp xúc. Họ không dám nói, người khác thường trả lời dùm cho họ, và họ luôn ngó chừng coi thử có ai đó quan sát theo dõi họ không, luôn lo lắng sợ hãi trong ánh mắt và cử chỉ v.v... Hai, là hộ chiếu. Các nạn nhân buôn người phần lớn, nếu không phải tất cả, đều bị tịch thu hộ chiếu. Những kẻ buôn người dùng nó để kiểm soát và ngăn chặn mọi ý định nào báo cáo với các cơ quan công quyền. Hiểu được điều này nên chính quyền của nhiều nước dân chủ đã thay đổi luật và luôn tìm cách bảo vệ nạn nhân, mặc dầu sau cùng nếu không phải là công dân thì họ cũng bị buộc phải trở về lại nước, trừ phi có diện hợp pháp để ở lại.
Trong khi đó, tại Việt Nam, tôi không rõ các nạn nhân của các vụ buôn người này có bị tịch thu hộ chiếu khi về lại Việt Nam hay không. Nhưng những nhà hoạt động Việt Nam, mới đây nhất là cô Đinh Thảo, mới về lại Việt Nam cách đây hai hôm khi viết bài này, đã bị tịch thu hộ chiếu. Cô Đinh Thảo cũng không phải là ngoại lệ. Nguyễn Hồ Nhật Thành, Nguyễn Anh Tuấn v.v… cũng đều bị như vậy. Tại các quốc gia như Úc, hộ chiếu là quyền đi lại của công dân. Bất cứ công dân nào. Chỉ khi nào phạm tội rất nặng, về an ninh quốc gia, về tình trạng sức khỏe (như bệnh truyền nhiễm có thể lan rộng), hay áo dâm, chẳng hạn, thì hộ chiếu mới có thể không được cấp/từ chối (refused), hay bị hủy bỏ (cancelled). Nhưng mọi người đều có thể khiếu kiện tại tòa án. Tòa án là nơi quyết định sau cùng, không phải chính quyền.
Những nhà hoạt động Việt Nam với mơ ước vì một tương lai Việt Nam tốt đẹp hơn lại bị chính chính quyền của mình đối xử như mối đe dọa an ninh. Họ đối xử như thủ phạm buôn người với nạn nhân bị buôn người. Hết ý kiến!
Sau cùng, liệu những tuyên bố của ông Nguyễn Xuân Phúc có giá trị gì không, có giải quyết được tận gốc vấn đề không? Những lý do bỏ nước ra đi (push factors) thì vô số, và những lý do di cư đến nơi khác (pull factors) thì cũng quá nhiều, trong trường hợp Việt Nam. Điều đó cho thấy sự thất bại toàn diện của chính quyền Việt Nam hôm nay trước mọi vấn đề của đất nước, mặc dầu họ muốn nói muốn tuyên truyền như thế nào đi nữa. Đất nước chưa bao giờ có được như ngày hôm nay, người đứng đầu nước Nguyễn Phú Trọng tuyên bố nhiều lần như thế. Cuối năm 2016 ông Trọng nói thế. Đến đầu năm 2019 cũng nói thế. Nhưng mang hộ chiếu Việt Nam đi đâu cũng bị coi thường. Số mạng của 39 người Việt Nam bị buôn người và chết tức tưởi như thế trong thời đại này. Có gì để hãnh diện, để tự mãn đến thế!
Trên thực tế thì thực trạng của đất nước hôm nay là ai cũng muốn ra đi, nếu có cơ hội. Ngay cả khi trả một số tiền quá lớn và phải đi làm nô lệ thời đại mới, qua đường dây buôn lậu đầy nguy hiểm và bất an, mà cũng có hàng chục, nếu không phải hàng trăm, ngàn người cũng muốn đi? Thông tin trung thực và giáo dục công dân vì thế là phần vô cùng quan trọng trong một phần của giải pháp này. Nhưng chính quyền Việt Nam đã làm gì trong phòng ngừa và ngăn chận này?
Vài lời kết
Ông Phúc nên tìm hiểu cách tiếp cận và giải quyết nạn buôn người của các nước khác trên thế giới, như Úc, chẳng hạn. Bốn nguyên tắc quan trọng nhất là: phòng ngừa và ngăn chận;
phát hiện và điều tra; truy tố và tuân thủ; hỗ trợ và bảo vệ nạn nhân. Nguyên tắc và chiến lược đối phó này là sự phối hợp toàn diện của chính quyền.
Hơn nữa, muốn chống tận gốc vấn nạn buôn người, thì trước hết phải chống tận gốc nạn tham nhũng, với tính cách hệ thống. Ở đâu cũng có tham nhũng, nhiều hay ít. Con người mà, tham lam ác độc đâu cũng có cả. Nhưng hệ thống? Chỉ có dưới các chế độ độc tài và cộng sản thôi. Khi tham nhũng tràn lan ở mọi tầng, mọi nơi, mọi lúc, thì làm sao chống cội nguồn vấn đề? Chẳng lẽ tự hủy diệt chính mình!
Còn những vấn đề ở tầng bao quát hơn, như bao vấn nạn khác của xã hội, của giáo dục, của khủng hoảng niềm tin và suy đồi đạo đức, của sự giả dối và trí trá, của sự lạm quyền và lộng quyền, của tư duy bảo thủ và lạc hậu, v.v… thì phải làm gì?
Rõ ràng là cần một giải pháp chính trị. Toàn diện và triệt để.