Phạm Phú Khải
Tôi là người theo xu hướng tự do. Có lẽ đó là giá trị cao cả và tiền điều kiện để sống cho có nhân phẩm. Đây là kinh nghiệm của chính mình và của bao người thuộc đủ mọi sắc tộc mà tôi có cơ hội làm việc. Khi một người có đủ thứ, tiền tài danh vọng, mà không có tự do, thì cũng không trọn vẹn. Tự do cho toàn xã hội, cho mọi công dân mà không phân biệt vì bất cứ lý do nào. Không phải là loại tự do hoang dã, nhưng là tự do ràng buộc bởi hiến pháp và pháp luật. Có tự do chưa hẳn sẽ mưu cầu được hạnh phúc, nhưng không có tự do, nghĩa là bị áp bức và nhất là bị áp đặt về mặt tư tưởng, chẳng hạn, thì không thể mưu cầu hạnh phúc đích thực.
Có thể có người siêu phàm vượt qua được mọi chướng ngại chung quanh để có hạnh phúc chăng, dù không có tự do. Nhưng đó là thiểu số đếm trên đầu ngón tay. Có thể họ đã tôi luyện được “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Có thể họ đã trở thành cao siêu và giác ngộ đến độ những cái khổ đau, tội ác, xấu xa hay bất công chung quanh mình không ảnh hưởng đến cảm nhận hay trí tuệ siêu việt của họ. Rất có thể họ có khả năng tách mình ra ngoài xã hội để không bị ảnh hưởng và không cảm nhận được nỗi đau của đồng loại, của những người chung quanh. Nhưng khoa học đã chứng minh con người là một động vật xã hội. Chúng ta không thể tồn tại hay phát triển một cách ý nghĩa, trọn vẹn và toàn diện nếu cô lập mình hoàn toàn. Một người chỉ có thể có hạnh phúc nếu họ tự do được chọn thực hiện những gì họ có khả năng nhất và thích hợp nhất với tài năng và lương tâm họ của họ. Tóm lại, tôi tin rằng tự do là điều kiện căn bản cho hạnh phúc đích thực.
Để có tự do, mọi công dân trong xã hội cần phải hiểu cái giá mà nhân loại đã trải qua, ngay cả khi họ đã có nó. Coi thường tự do thì sẽ mất tự do. Xâm phạm quá nhiều vào quyền tự do của người khác sẽ dẫn đến mất tự do của chính mình, nếu không bây giờ thì cũng sẽ xảy ra một ngày nào đó. Bao nhiêu cuộc đấu tranh nhân danh tự do để lật đổ chính thể cai trị để rồi khi đã nắm được quyền lực trong tay, những cá nhân và chính quyền này đã phản bội mọi sự hứa hẹn trước đó. Các thể chế chính trị dân chủ non trẻ như Ba Lan, Tiệp Khắc, Đài Loan, Đại Hàn, Thái Lan v.v…, nơi mà văn hoá dân chủ chưa thấm sâu vào trong cách suy nghĩ và hành xử của cá nhân và tập thể, và nơi mà các định chế nhà nước, từ chính trị đến xã hội và giáo dục, vẫn chưa đề cao sự trong sạch, minh bạch và trách nhiệm, thì không có gì bảo đảm sự vững ổn của nền dân chủ đó. Chỉ cần có những khó khăn của quốc gia về môi trường sống, về kinh tế, về công ăn việc làm, chẳng hạn, thì sự hứa hẹn của một nhà dân tuý mị dân có thể làm lung lây cái nền tảng dân chủ không vững chắc này.
Cho nên một trong những điều quan trọng, và là bài học cần thiết cho Việt Nam trong tương lai, là chương trình giáo dục cho mọi công dân. Ít nhất là từ trung học trở đi, tất cả đều phải học về văn hoá, lịch sử, chính trị học, xã hội học, và nhân chủng học, của đất nước và của thế giới, để hiểu về con người, các điểm tương đồng cũng như khác biệt, giữa cùng chủng tộc và khác chủng tộc, về các tôn giáo và các nền văn minh khác nhau.
Học ở đây không phải là học thuộc lòng. Cái kiến thức không quan trọng bằng cái tri thức. Bộ óc con người có khả năng trí nhớ nhưng như thế không khác gì máy vi tính hiện nay. Máy vi tính có bộ nhớ hơn hẳn con người. Với trí tuệ nhân tạo trong tương lai gần, máy siêu vi tính hay máy tính lượng tử có khả năng vượt qua con người trên nhiều bình diện. Nếu con người không chỉ biết nghĩ gì mà nghĩ như thế nào (not only what to think but how to think) thì chúng ta sẽ tồn tại và sẽ tiếp tục phát triển khoa học kỹ thuật và nền văn minh của mình trong các thập niên và các thế kỷ tới. Những gì bất khả ngày hôm nay không có nghĩa vẫn như thế ngày mai. Bộ óc con người được trang bị như thế để tồn tại, và chúng ta đều có khả năng thay đổi thói quen tưởng chừng như bất di bất dịch.
Học thì phải biết phân tích, lý luận, biện luận và tranh luận cho quan điểm của mình hay phản biện các quan điểm khác. Bậc đại học là nơi để sinh viên trao dồi và phát huy cách suy nghĩ như thế nào về một vấn đề nào đó. Còn đến đó chỉ để học về kiến thức thôi thì không những không thể có được những khám phá gì mới mẻ mà còn mãi mãi chỉ là học trò của những người bạn chung quanh.
Cái tư duy độc lập đó, được trang trị bởi cách suy nghĩ phê phán và đa phương, là nền tảng căn bản nhưng quan trọng nhất của một nền dân chủ vững ổn.
Chúng ta đã được nghe và đọc rất nhiều về lịch sử lập quốc của Hoa Kỳ. Đọc lịch sử với các biến cố và kết cuộc vĩ đại, chúng ta dễ dàng choáng ván rồi bỏ qua điều quan trọng. Đó là các nhà lập quốc đã nghĩ gì, đã tranh luận như thế nào, đã vận động, thuyết phục và thoả hiệp nhau như thế nào, để đưa đến Tuyên Ngôn Độc Lập rồi thống hợp 13 tiểu quốc/bang để thành một Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ với một hiến pháp và các quyền tự do trong tu chính một đến mười kèm theo ngay sau đó.
Theo giáo sư chính trị học nổi tiếng Graham Allison, người đã đặt tên “bẫy Thucydides”, thì các nhà lập quốc Hoa Kỳ hiểu rất rõ rằng xây dựng một chính quyền mà trong đó các công dân tự do của mình có thể tự quản trị là một đảm nhận nguy hiểm và bất định [1]. Trong những câu hỏi khó khăn nhất mà họ phải đối diện là làm thế nào cấu tạo một chính quyền đủ mạnh để đảm bảo các quyền công dân ngay trên nước mình, đồng thời bảo vệ họ từ những kẻ thù bên ngoài, nhưng không quá mạnh đến độ nó lạm dụng sức mạnh của nó.
Giải pháp của họ không chỉ là sự phân chia quyền lực (separation of power) của nhà nước thành các định chế/nhánh hành pháp, lập pháp và tư pháp, mà còn là “các định chế phân lập chia sẻ quyền lực” (separated institutions sharing power). Theo Richard Neustadt thì hiến pháp là một sự mời gọi để đấu tranh nhau (invitation to struggle). Các tổng thống, thành viên quốc hội (dân biểu và thượng nghị sĩ), thẩm phán và ngay cả các ký giả/nhà truyền thông đã đấu tranh nhau kể từ đó và sẽ không bao giờ chấm dứt. Tiến trình này không có nghĩa/được xem là tốt đẹp (not meant to be pretty). Thẩm phán tối cao pháp viện của Hoa Kỳ Louise Brandeis đã giải thích với những người bực bội về những sự chậm chạm, đình trệ và kể cả ngu xuẩn đối với những sự kiểm tra và cân bằng này thỉnh thoảng đưa đến, rằng mục đích của các nhà lập quốc Hoa Kỳ là “không phải để đề cao hiệu năng mà là để ngăn chặn sự áp dụng quyền lực một cách tuỳ tiện”.
Cho nên ngay từ ban đầu, sự thử nghiệm của Hoa Kỳ đối với nền tự trị luôn luôn là công việc tiếp diễn không ngừng. Nó đã đưa đến thất bại không chỉ một lần, cuộc nội chiến. Thời Abraham Lincoln, ông từng đặt câu hỏi: “có thể một quốc gia, hay bất cứ quốc gia nào được hình thành, … có thể tồn tại lâu dài được chăng”. Nó không phải là một câu hỏi nghe cho vui. Nhưng lập đi lập lại, và phần lớn rất kỳ diệu, Hoa Kỳ đã chứng minh khả năng đổi mới và tái tạo. Allison biện luận rằng qua kinh nghiệm đau đớn này, điều bắt buộc tái diễn đối với các lãnh đạo Hoa Kỳ là phải chứng minh được rằng chủ nghĩa cấp tiến (liberalism) có thể tồn tại ít nhất tại một quốc gia.
Trump là một thách thức cực lớn không phải chỉ cho nền trật tự thế giới hiện nay mà còn cho chính nền dân chủ tại Hoa Kỳ hôm nay. Trump đặt vấn đề về tính chính đáng của các thẩm phán liên bang, không tỏ vẻ tôn trọng Hiến pháp hay nền pháp trị, và nhất là tấn công vào truyền thông, vân vân…
Trong nền dân chủ cấp tiến (liberal democracy), truyền thông được xem là đại tứ quyền, ngoài tư pháp hành pháp và lập pháp. Không phải truyền thông nào cũng nói sự thật. Thật ra, một cách tốt nhất (at best), truyền thông nào cũng chỉ nói một hay nhiều phần sự thật, dù với thiện ý để đi tìm hoặc phơi bày sự thật đi nữa. Họ đều có giới hạn, hoặc là vì khả năng, nhân sự chuyên môn, quan điểm chính trị, hay vì tài lực v.v… Người đọc, do đó, cần phải đọc với cặp mắt phê phán chứ không nên tin răm rắp những gì truyền thông, ngay cả các cơ quan uy tín nhất đi nữa, nói/viết. Nhưng nếu truyền thông không được tự do trong việc truyền tải thông tin và nhận định của họ thì quốc gia và xã hội đó chắc chắn sẽ trở thành độc đoán và độc tài, không sớm thì muộn.
Winston Churchill xem việc than phiền về truyền thông cũng chẳng khác gì than trách thuyền trên biển gặp phải sóng. Vậy mà Trump không biết bao nhiêu lần gọi các cơ quan truyền thông không cùng quan điểm với mình là “kẻ thù của người dân Mỹ”, và là “giả”, đủ mọi thứ giả [2]. Tin giả, chuyện giả, truyền thông giả, thăm dò ý kiến giả v.v… Tuy thế, tôi tin rằng hiện tượng Trump đã hay sẽ làm cho Hoa Kỳ, nhất là giới ưu tú, thức tỉnh để từ đó góp phần giúp Hoa Kỳ hồi phục và trở thành vĩ đại trở lại. Ít ra là phục hồi và củng cố nền dân chủ đang có nhiều vấn đề hiện nay.
Những ai quan tâm đến tình hình Việt Nam, cho cuộc vận động dân chủ hiện nay và cuộc xây dựng nền tảng dân chủ cho đất nước mai sau, với tinh thần cầu tiến và khách quan, có thể học hỏi nhiều từ những đấu tranh không ngừng giữa mọi thành phần xã hội và chính trị tại Hoa Kỳ. Chúng ta cũng có thể học hỏi được rất nhiều từ công cuộc vận động dân chủ thành công lẫn thất bại khắp nơi trong các thập niên qua. Và cũng có thể học được rất nhiều từ các nhà lập quốc Hoa Kỳ, qua tư tưởng, chiến lược, chính sách và kế hoạch thời đó. Đặc biệt là qua nỗ lực xây dựng các định chế nhà nước của họ. Đó là những nỗ lực không ngừng, tái kiến thiết tái xây dựng và tái hoàn chỉnh. Bởi chỉ khi nào chúng ta nghĩ một vấn đề gì đó đã hoàn chỉnh thì mới không còn cố gắng hoàn chỉnh nó. Nhưng mọi sự do con người làm ra đều không hoàn chỉnh. Bản chất con người là không hoàn hảo hay hoàn thiện. Mỗi thời đại lại có ý tưởng mới. Hiểu được như thế chúng ta không kiêu ngạo và không an phận.
Mỗi thế hệ họ tự thấu hiểu và tự điều chỉnh lấy các vấn đề xã hội và các thử thách đối diện. Để làm được việc đó, mỗi công dân trong xã hội cần được trang bị kiến thức cần thiết và được khuyến khích tinh thần chuẩn bị gánh vác những vai trò quan trọng cho cộng đồng và quốc gia, bằng tư duy độc lập. Chỉ khi nào người dân, nhất là những người quan tâm đến các vấn đề chung, hiểu thấu các vấn đề của quá khứ/lịch sử, của hiện tại, và có viễn kiến, tầm nhìn cho tương lai, thì mới hy vọng xây dựng được những ước mơ lớn cho chính mình và cho dân tộc mình.
(Úc Châu, 16/08/2018)
Tài liệu tham khảo:
1. Graham Allison, “The Myth of the Liberal Order”, Foreign Affairs, Volume 97, Number 4, July/August 2018; trang 124-133. Allison là người nghiên cứu về cái bẫy chết người mà nhà sử học Hy Lạp Thucydides đã nhận diện và giải thích. Đó là sử trổi dậy của Athen và mối lo sợ của Sparta đã làm cho chiến tranh hai bên không thể tránh được. Xin đọc Graham Allison, “The Thucydides Trap”, Foreign Policy, 9 June 2017. Allison nghiên cứu lịch sử 500 năm qua và kết luận rằng trong 16 trường hợp tương tự như thế thì có đến 12 trường hợp dẫn đến chiến tranh. Liệu chiến tranh có xảy ra giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ không? Nếu thích thì có thể tìm hiểu thêm tác phẩm của ông “Destined for war”, Houghtin Mifflin Harcourt, 2017.
2. Cleve R. Wootson Jr., “ ‘Not the enemy of the people’: 70 news organizations will blast Trump’s attack on the media”, The Washington Post, 12 August 2018.