Vừa rồi, tôi tham gia cuộc hội thảo quốc tế do Hội Nghiên cứu Văn học Úc được tổ chức tại trường Đại học Sydney với một bài tham luận về đề tài “Vấn đề ngôn ngữ và bản sắc trong văn học Việt Nam tại Úc”. Bài tham luận khá dài, tôi chỉ xin tóm tắt lại phần đầu: Tại sao nhiều, rất nhiều nhà văn và nhà thơ tại Úc chọn viết tiếng Việt?
Trước hết, cần lưu ý là tại Úc hiện nay, có trên 200.000 người Việt sinh sống, trong đó, có khoảng vài chục người có thể được xem là nhà văn hay nhà thơ với những tác phẩm được công bố trên các tạp chí hoặc diễn đàn văn học có uy tín. Đứng về phương diện ngôn ngữ, những người này có thể được chia thành ba nhóm chính: Một, những người chỉ viết bằng tiếng Anh, chủ yếu thuộc thế hệ thứ hai, sinh trưởng tại Úc, trong đó, nổi bật nhất chắc chắn là Nam Lê, tác giả tập truyện ngắn The Boat đoạt nhiều giải thưởng quốc tế, kể cả giải thưởng văn học dành cho thể truyện của Thủ tướng Úc vào năm 2009. Thứ hai là những người vừa viết bằng tiếng Việt vừa viết bằng tiếng Anh. Nhóm này có thể được chia thành hai nhóm nhỏ hơn: một, những người bắt đầu bằng tiếng Việt, sau đó, khi đã tự tin hơn, viết thêm cả tiếng Anh. Hai, những người bắt đầu viết bằng tiếng Anh, sau, vì một lý do nào đó, chuyển sang viết tiếng Việt. Với một mức độ nào đó, có thể gọi những người này là những nhà văn hay nhà thơ song ngữ. Cuối cùng, nhóm thứ ba, đông và hoạt động sôi nổi nhất, là những người viết toàn bằng tiếng Việt; hoặc, nếu viết bằng tiếng Anh thì cũng chỉ hoạ hoằn, lâu lâu mới có một vài bài, chủ yếu là thơ hoặc tiểu luận.
Trong bài này, tôi chỉ tập trung vào những người chủ yếu viết bằng tiếng Việt với hai câu hỏi chính: Một, tại sao họ lại chọn viết bằng tiếng Việt thay vì bằng tiếng Anh? Và hai, họ nghĩ gì về bản sắc của họ với tư cách một nhà văn hay nhà thơ viết bằng tiếng Việt trong một quốc gia nói tiếng Anh như Úc?
Đối với câu hỏi thứ nhất, câu trả lời đơn giản có thể là vấn đề ngôn ngữ. Nhiều, nếu không muốn nói là tất cả những nhà văn và nhà thơ viết bằng tiếng Việt tại Úc đều thuộc thế hệ thứ nhất sang Úc với tư cách tị nạn hoặc sinh viên du học. Trong số đó, nhiều người sống tại Úc còn lâu hơn cả thời gian họ sống ở Việt Nam; tiếng Anh của họ rất giỏi. Họ có thể được xem là những người song ngữ. Tuy vậy, không có ai có thể được xem là cây bút song ngữ thực sự. Dù viết bằng cả hai thứ tiếng nhưng phần thành công nhất của họ vẫn thuộc về phần tiếng Việt. Chưa có ai khẳng định tên tuổi trong làng văn và làng thơ Úc. Sự thất bại - nếu có thể gọi là “thất bại” - này tương đối dễ hiểu. Trên thế giới, dù có nhiều nhà văn và nhà thơ song ngữ nhưng số người thành công trong cả hai ngôn ngữ rất hiếm. Samuel Beckett, viết bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, Vladimir Nabokov, viết bằng tiếng Anh và tiếng Nga, chỉ là những ngoại lệ hoạ hoằn. Cực kỳ hoạ hoằn. Nhưng ngay cả Nabokov, người được xem là bậc thầy trong văn xuôi tiếng Anh, cũng từng thú nhận, viết bằng tiếng Anh, ngôn ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ của ông, luôn luôn là một “bi kịch thầm kín” hoặc, nói theo lời của ông, “việc tôi chuyển hẳn từ văn xuôi tiếng Nga sang văn xuôi tiếng Anh là một sự đau đớn kinh khủng, nó giống như việc học cầm vật gì sau khi đã mất bảy hay tám ngón tay trong một vụ nổ”. Lý do của những khó khăn hay thất bại này không có gì đáng ngạc nhiên. Ngôn ngữ văn chương, đặc biệt ngôn ngữ thơ ca khác hẳn ngôn ngữ chức năng hoặc học thuật. Nó không phải chỉ thuần là các cái biểu đạt (signifiers). Nó còn cắm rễ sâu xa trong cả lịch sử dân tộc lẫn ký ức cá nhân, và hệ quả là, nó không chỉ có tính khái niệm hoặc trí thức mà còn có nhạc điệu và cảm xúc. Chính khía cạnh nhạc điệu và cảm xúc này làm cho những người sử dụng ngôn ngữ không phải tiếng mẹ đẻ của mình khó có một lỗ tai thật tinh tế để nghe ngóng các âm, các nhịp điệu, các màu sắc và tính liên văn bản của ngôn ngữ. Nó cũng gây khó khăn để họ có được một sự nối kết về cảm xúc đối với những từ ngữ họ sử dụng. Vì thiếu “lỗ tai” và sự nối kết về cảm xúc này, Stanislaw Baranczak đã chỉ ra, “những trò chơi ngôn ngữ hầu như bất khả đối với các nhà văn lưu vong khi họ chọn viết bằng một ngôn ngữ khác”. Linda Lê, một nhà văn Pháp gốc Việt diễn tả một cách mạnh mẽ hơn: “Viết văn bằng thứ ngôn ngữ không phải tiếng mẹ đẻ của mình giống như làm tình với một xác chết”. Điều này giải thích tại sao có nhiều nhà văn song ngữ thành công hơn những nhà thơ song ngữ.
Trở lại trường hợp của Nabokov, Ha Jin nhận xét: “Nabokov dường như không biết cách chơi với nhịp điệu để làm nảy sinh ra những hiệu ứng đầy kịch tính và dường như ông chỉ là một bậc thầy lỗi lạc về văn xuôi nhưng chỉ là một nhà thơ tầm thường trong tiếng Anh”. Czesław Miłosz, một nhà thơ Mỹ gốc Ba Lan, người đoạt giải Nobel văn chương năm 1980, là một ví dụ khác. Mặc dù sống và dạy đại học ở Mỹ hơn 40 năm, biết khá nhiều thứ tiếng, và thường xuyên dịch thơ từ tiếng Anh sang tiếng Ba Lan hoặc ngược lại, ông chỉ làm thơ bằng tiếng Ba Lan và để cho người khác dịch sang tiếng Anh. Có lần ông tuyên bố là người ta chỉ làm thơ bằng thứ tiếng mình học từ nhỏ. Chia sẻ kinh nghiệm ấy, hầu hết, nếu không nói là tất cả các nhà văn và nhà thơ thuộc thế hệ thứ nhất đều viết chủ yếu bằng tiếng Việt. Chỉ có một số người thử viết tiếng Anh. Nhưng dường như chưa có ai thực sự thành công.
Lý do thứ hai khiến nhà văn và nhà thơ Việt Nam chọn viết bằng tiếng Việt là lòng trung thành đối với ngôn ngữ. Ngôn ngữ nào cũng gắn liền với khái niệm gốc rễ, tinh thần dân tộc, ký ức tập thể và bản sắc, chọn viết bằng một ngôn ngữ khác, do đó, bao giờ cũng được xem như một sự mất mát hoặc cắt đứt quan hệ với quá khứ và tổ tiên. Trong cuốn The Writer as Migrant, Ha Jin, một nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc, nhận định hầu hết các nhà văn di dân đều có cảm giác có tội khi sống xa quê hương và cảm giác phản bội khi phải viết bằng một ngôn ngữ khác. Trong cuốn Alien Tongues: Bilingual Russian Writers of the ‘First’ Emigration, Elizabeth Klosty Beaujour cho nhiều nhà văn Nga nổi tiếng xem việc viết bằng các ngôn ngữ khác ngoài tiếng Nga là một sự phản bội, một chứng bệnh và một cơn đau đớn. Elsa Triolet nhiều lần tuyên bố bà phát bệnh vì hiện tượng song ngữ; với bà, là một người song ngữ giống như một người có hai chồng (hoặc hai vợ) cùng lúc. Những chữ như song hôn (bigamy), ngoại tình hay ngay cả loạn luân được các nhà văn song ngữ sử dụng khá thường xuyên. Ý nghĩa của tiếng mẹ đẻ lại càng lớn đối với giới cầm bút Việt Nam, những người luôn tự hào là dù bị Trung Hoa đô hộ cả ngàn năm, họ vẫn không bị mất gốc và đặc biệt, vẫn giữ được tiếng nói riêng. Đầu thế kỷ 20, một trong những học giả xuất sắc nhất của Việt Nam, Phạm Quỳnh, cho “tiếng Việt còn thì nước Việt còn”. Quan niệm này được rất nhiều người Việt Nam chia sẻ. Sau năm 1975, ở hải ngoại, nhiều người khuyên con cháu nên học tiếng Việt trước hoặc cùng lúc với ngôn ngữ chính nơi họ đang ở. Trong một bối cảnh như vậy, việc các nhà văn, nhà thơ chọn viết tiếng Việt không có gì đáng ngạc nhiên.
Tuy nhiên, lý do thứ ba này quan trọng nhất: độc giả. Trên lý thuyết, những người viết bằng tiếng Anh, ngôn ngữ phổ thông nhất trên thế giới, hẳn có nhiều độc giả nhất. Tuy nhiên, trên thực tế, trừ phi là một tác giả lớn hoặc bán thật chạy, người ta không thể có được một khối độc giả lý tưởng ấy. Phần lớn các tác giả người Việt tại Úc, trừ Nam Lê, đều không may mắn như vậy. Cả số độc giả lẫn tiếng tăm của họ, nói chung, đều khá khiêm tốn. Chỉ có vài người là được giới người đọc Úc biết đến. Bởi vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi tạp chí Việt ra đời vào năm 1998, cả Lê Văn Tài lẫn Tạ Duy Bình, những người trước đó viết bằng tiếng Anh, đều lần lượt quay về với tiếng Việt. Từ năm 2001, khi Tiền Vệ ra đời và trở thành một trong vài tờ báo mạng về văn học được đọc nhiều nhất, họ - cùng với nhiều người khác - đều chỉ viết bằng tiếng Việt. Qua tạp chí giấy cũng như báo mạng, họ có được một khối độc giả rất lớn không những tại Úc mà còn hầu như khắp nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam.
Nói một cách tóm tắt, theo tôi, có ba lý do chính khiến hầu hết, nếu không nói tất cả các cây bút Việt Nam thuộc thế hệ thứ nhất tại Úc chọn viết bằng tiếng Việt là: ngôn ngữ, sự trung thành với ngôn ngữ và nhu cầu có độc giả, những người đọc họ, hiểu họ và chấp nhận họ với tư cách một nhà văn hay một nhà thơ.
Tuy nhiên, từ đây, một câu hỏi khác nảy ra là: Những cây bút này nghĩ gì về bản sắc của họ?
Bản sắc là một khái niệm rất rộng và phức tạp, thường thay đổi theo văn hoá, thế hệ, phái tính và ngay cả kinh nghiệm cá nhân. Đây là một đề tài thú vị nhưng quá dài. Tôi xin khất lại một dịp khác.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.