Để lý giải lạm phát ở Việt Nam một cách đơn giản nhất, hãy bắt đầu từ chỗ nền kinh tế Việt Nam trong một giai đoạn dài luôn ở mức tới hạn khả năng sản xuất (tức là không còn các nguồn lực dư thừa). Trong điều kiện tới hạn khả năng sản xuất, để tăng GDP thì cần tập trung vào các yếu tố nền tảng để tăng năng suất lao động nhằm khai thác tốt hơn các nguồn lực hiện có.
Tuy nhiên cuộc chơi tăng năng suất lao động là cuộc chơi nan giải và chỉ thành công trong dài hạn. Việt Nam đã chọn cho mình một hướng đi dễ dàng hơn, nhưng cũng nguy hiểm hơn. Đó là cuộc chơi ngắn hạn thông qua việc bơm liên tục đầu tư (cả công và tư) và tăng chi tiêu của nhà nước để đẩy GDP trong ngắn hạn. Điều này cũng ví như thay vì nuôi con vịt cho nó lớn một cách bình thường (khá mất thời gian), thì chúng ta lại nhồi nhét thật nhiều bánh đúc vào họng con vịt này giống như các bà bán vịt sống ở ngoài chợ để nó tăng cân đột biến.
Vì năng lực sản xuất đã ở mức tới hạn, việc bơm tiền qua đầu tư và chi tiêu công không làm gia tăng sản lượng được bao nhiêu, ngược lại gây tăng giá vì lượng tiền trong nền kinh tế đột nhiên tăng lên mà lượng hàng hóa nó sản xuất ra không tăng tương ứng (học thuyết tiền tệ).
Hoặc nếu sản lượng có tăng trong ngắn hạn do nhà nước tăng tiêu dùng khiến cho tổng cầu tăng đẩy giá ngắn hạn tăng lên theo trong khi tiền lương chưa điều chỉnh kịp khiến các nhà sản xuất có lợi hơn khi sản xuất nhiều hơn, thì về dài hạn, tiền lương cũng sẽ được điều chỉnh tăng khiến sản lượng lại bị co về đúng bằng mức cân bằng dài hạn. Và như thế việc tăng chi tiêu công khi nền kinh tế đang ở mức tới hạn khả năng sản xuất chỉ khiến cho giá cả tăng mà thôi (học thuyết Keynesian).
Chính vì thế, để giảm lạm phát ở Việt Nam thì phải cắt giảm đầu tư và/hoặc chi tiêu công như là một mũi tên bắn trúng 3 mục tiêu:
1.Giảm đầu tư công cũng dẫn tới việc thu hẹp tài trợ ngân sách bằng cách tăng cung tiền;
2.Giảm đầu tư công bằng cách tăng các tiêu chí về hiệu quả đầu tư sẽ nâng cao hiệu quả đầu tư công;
3.Giảm đầu tư công và chi tiêu công để chấm dứt hiệu ứng chèn lấn (crowd out), tạo điều kiện cho khu vực tư nhân phát triển;
Để tăng trưởng bền vững thì không thể dựa vào các biện pháp nhồi vịt như ở trên. Việt Nam phải tập trung cải cách thể chế kinh tế để tăng năng suất lao động, coi đây là động lực của phát triển lâu dài.
Chính phủ đã thể hiện rõ quyết tâm thắt chặt cả tín dụng lẫn tài khóa trong năm nay. Các động thái thắt chặt tiền tệ của Chính phủ rất rõ ràng và tới nay đã bắt đầu phát huy tác dụng. CPI đã giảm trong tháng 5 (2,21%) và tháng 6 (1,09%) từ mức đỉnh điểm trong tháng 4 (3,32%). Tuy nhiên giải pháp thắt chặt tài khóa hầu như vẫn chưa thực hiện được bao nhiêu.
Tại Hội nghị giữa kỳ 2011 Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (CG 2011) cho Việt Nam vào ngày 08-09/6/2011, Bộ Tài chính chưa đưa ra thống kê chính thức về tình hình thực hiện mục tiêu giảm thâm hụt ngân sách nhà nước (NSNN) xuống dưới mức 5% GDP. Tuy nhiên, số liệu thu chi ngân sách của 04 tháng đầu năm 2011 mà Bộ này đưa ra cho thấy trong 04 tháng đầu năm 2011, chi NSNN tăng 19% so với cùng kỳ năm ngoái và thu NSNN cũng tăng với tốc độ xấp xỉ (19.1%) so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, trong 04 tháng đầu năm này thì tình hình thâm hụt NSNN chưa có cải thiện đáng kể nào so với cùng kỳ 2010.
Cũng tại Hội nghị này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra con số tổng đầu tư của nhà nước (bao gồm cả đầu tư của DNNN) đã cắt giảm là 80.550 tỷ đồng (tương đương khoảng gần 4 tỷ USD). Tuy nhiên trong số này thì có tới 39.212 tỷ là do DNNN cắt và 15.000 tỷ là do không ứng trước vốn đầu tư cho năm 2012 và không kéo dài thời gian giải ngân vốn kế hoạch của năm 2010. Vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu chính phủ kế hoạch năm 2011 thực sự bị cắt giảm chỉ có 8.333 tỷ đồng.
Việc hạ nhiệt của CPI có thể khiến cho Chính phủ có động cơ nới lỏng bớt chính sách tiền tệ. Điều này, nếu được thực hiện, sẽ khiến CPI tăng mạnh trở lại. Nếu nhìn vào thống kê tốc độ tăng CPI theo tháng của các năm từ 2007 tới 2011 (xem biểu đồ trong phần 1) thì một đặc điểm dễ nhận thấy là diễn biến CPI của các năm 2007, 2009, và 2010 rất giống nhau: tốc độ tăng CPI cao hồi đầu năm, giảm khá mạnh trong quý 2, ổn định ở quý 3, và tăng tốc trở lại vào quý 4. Riêng trong năm 2008, CPI tăng rất mạnh vào quý 1 và nửa quý 2, giảm rất mạnh từ giữa quý 2 cho tới tận cuối năm.
Diễn biến lạm phát của năm nay sẽ giống như kịch bản các năm 2007, 2009, và 2010 hay sẽ giống như kịch bản năm 2008 phụ thuộc vào các nỗ lực chính sách tiếp theo của chính phủ. Nếu việc thi hành Nghị quyết 11 bị lơ là, và chính sách tiền tệ bị nới lỏng sớm, thì chắc chắn lạm phát sẽ quay trở lại trong quý 4. Và nếu điều đó xảy ra, thì vẫn có lý do để lo ngại rằng kinh tế vĩ mô của Việt Nam năm nay sẽ vỡ trận.
Tóm lại, lạm phát đang và sẽ tiếp tục là vấn đề vĩ mô lớn nhất của năm nay. Tốc độ tăng CPI có vẻ như đang giảm bớt vào tháng 5 và tháng 6, nhưng còn xa mới có thể nói rằng đã lập lại sự ổn định (dù là tạm thời) về mặt bằng giá cả. Việc tiếp tục triệt để thực hiện Nghị quyết 11 có ý nghĩa sống còn cho mục tiêu ổn định vĩ mô này. Vì lạm phát đang là yếu tố vĩ mô duy nhất đang từng ngày từng giờ bào mòn sức chịu đựng của đại bộ phận công chúng, Chính phủ cần hết sức thận trọng trong việc nới lỏng các công cụ tài khóa và tiền tệ, cương quyết tránh nới lỏng các công cụ này quá sớm.
* Blog của Tiến sĩ Trần Vinh Dự là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.